Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thuế, đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách
Chiều 17/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Quốc hội nghe trình bày Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi).
Hoàn thiện quy định về chính sách thuế GTGT
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật Thuế GTGT (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, mục đích việc đề xuất sửa đổi Luật là nhằm hoàn thiện quy định về chính sách thuế GTGT để bao quát toàn bộ các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu; bảo đảm tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện Luật để góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả của hoạt động quản lý thuế trong phòng, chống trốn thuế, thất thu và nợ thuế; đảm bảo thu đúng thu đủ vào NSNN, đảm bảo ổn định nguồn thu NSNN.
Đồng thời, đổi mới các nội dung và các điều luật theo hướng gia tăng các quy định, luật hóa các quy định đã thực hiện ổn định tại văn bản dưới luật (Nghị định, Thông tư) nhằm cải cách thủ tục hành chính; cải cách thủ tục quản lý thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, thống nhất, ổn định chính sách, thực hiện quản lý thuế điện tử, bảo vệ quyền lợi người nộp thuế, tạo môi trường thuận lợi cho người nộp thuế tuân thủ pháp luật về thuế, tự giác nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào NSNN…
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc, dự thảo Luật về cơ bản vẫn được kế thừa từ Luật hiện hành nhưng có chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với nội dung chính sách. Theo đó, dự thảo Luật giữ nguyên nội dung quy định tại 5 Điều của Luật thuế GTGT hiện hành gồm: phạm vi điều chỉnh (Điều 1); thuế GTGT (Điều 2); đối tượng chịu thuế (Điều 3); căn cứ tính thuế (Điều 6); phương pháp tính thuế (Điều 9).
Sửa đổi, bổ sung các nội dung quy định tại 11 Điều của Luật thuế GTGT hiện hành gồm: người nộp thuế (Điều 4); đối tượng không chịu thuế (Điều 5); giá tính thuế (Điều 7); thuế suất (Điều 8); phương pháp khấu trừ thuế (Điều 10); phương pháp tính trực tiếp trên GTGT (Điều 11); khấu trừ thuế GTGT đầu vào (Điều 12); các trường hợp hoàn thuế (Điều 13); hóa đơn, chứng từ (Điều 14); hiệu lực thi hành (Điều 15); tổ chức thực hiện (Điều 16). Đồng thời, bổ sung 1 Điều quy định về thời điểm xác định thuế GTGT và 1 Điều quy định về các hành vi bị nghiêm cấm.
Về một số nội dung cụ thể, về giá tính thuế GTGT, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, sửa đổi quy định giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu là trị giá tính thuế nhập khẩu theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cộng với các khoản thuế là thuế nhập khẩu bổ sung theo quy định của pháp luật (nếu có), cộng với thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có) và cộng với thuế bảo vệ môi trường (nếu có) để đảm bảo phù hợp với pháp luật chuyên ngành (điểm b khoản 1 Điều 7 dự thảo Luật).
Bổ sung quy định cụ thể giá tính thuế đối với 2 nhóm hàng hóa, dịch vụ để luật hóa các quy định đang thực hiện ổn định tại các văn bản dưới Luật gồm: hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại theo quy định của pháp luật về thương mại (điểm c khoản 1 Điều 7 dự thảo Luật); dịch vụ kinh doanh: ca-si-nô, trò chơi điện tử có thưởng, đặt cược (điểm l khoản 1 Điều 7 dự thảo Luật).
Bổ sung quy định việc xác định giá đất được trừ khi xác định giá tính thuế đối với hoạt động kinh doanh bất động sản, giá tính thuế đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh đặc thù (hoạt động sản xuất điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam; vận tải, bốc xếp; dịch vụ du lịch theo hình thức lữ hành; dịch vụ cầm đồ; sách chịu thuế GTGT bán theo đúng giá phát hành (giá bìa);...) theo quy định của Chính phủ để đảm bảo cơ sở pháp lý về thẩm quyền giao Chính phủ và luật hóa quy định đã thực hiện ổn định, phù hợp với tình hình hiện nay (điểm h, điểm m khoản 1 Điều 7 dự thảo Luật).
Đồng thời, bổ sung 1 Điều (Điều 8) tại dự thảo Luật về thời điểm xác định thuế GTGT để luật hóa quy định đang thực hiện ổn định tại văn bản dưới Luật.
Về khấu trừ thuế GTGT đầu vào, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức cho biết, dự thảo Luật sửa đổi quy định đối với trường hợp cơ sở kinh doanh phát hiện số thuế GTGT đầu vào khi kê khai, khấu trừ bị sai, sót để tránh vướng mắc trong thực hiện và thống nhất theo quy định của Luật quản lý thuế (điểm đ khoản 1 Điều 14 dự thảo Luật).
Bổ sung quy định về khấu trừ thuế GTGT đầu vào để luật hóa một số quy định đã thực hiện ổn định tại các văn bản dưới Luật, ví dụ: việc hạch toán vào chi phí để tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ (điểm e khoản 1 Điều 14 dự thảo Luật); điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài (điểm a khoản 2 Điều 14 dự thảo Luật);…
Bổ sung quy định khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với các trường hợp (hàng hóa, dịch vụ hình thành TSCĐ phục vụ cho người lao động trong khu vực sản xuất, kinh doanh và nhà ở, trạm y tế cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu kinh tế; ô tô chở người từ 9 chỗ ngồi trở xuống; khấu trừ thuế GTGT đầu vào của cơ sở sản xuất kinh doanh tổ chức sản xuất khép kín, hạch toán tập trung và sử dụng sản phẩm thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT để sản xuất ra mặt hàng chịu thuế GTGT;…) thực hiện theo quy định của Chính phủ để đảm bảo cơ sở pháp lý về thẩm quyền giao Chính phủ và luật hóa quy định đã thực hiện ổn định, phù hợp với tình hình hiện nay (điểm g khoản 1 Điều 14 dự thảo Luật)…
Ngoài ra, dự thảo Luật cũng sửa đổi một số nội dung liên quan đến: người nộp thuế; thuế suất; đối tượng không chịu thuế GTGT; về hoàn thuế GTGT; hóa đơn, chứng từ…
Cần thiết sửa đổi Luật thuế GTGT
Báo cáo thẩm tra dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, Ủy ban Tài chính, Ngân sách nhất trí về sự cần thiết sửa đổi Luật để giải quyết các bất cập trong thực tiễn cũng như hoàn thiện chính sách thu, phù hợp với mục tiêu đề ra trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 và Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Đối với một số nội dung cụ thể, về mức doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội cho biết, dự thảo Luật sửa đổi quy định mức doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT (theo quy định của Luật hiện hành) thành “dưới mức do Chính phủ quy định”. Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho rằng, việc sửa đổi, điều chỉnh quy định về ngưỡng doanh thu hàng năm thuộc diện không chịu thuế GTGT là cần thiết để phù hợp với thực tế phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và cần được quy định cụ thể trong Luật để xác lập căn cứ pháp lý rõ ràng.
Về khấu trừ thuế GTGT đầu vào, ông Lê Quang Mạnh cho biết, đối với việc kê khai, khấu trừ bổ sung, Ủy ban Tài chính, Ngân sách nhất trí với việc sửa đổi theo hướng cần quy định rõ đối với những hoá đơn bị bỏ sót hoặc kê khai sai thì doanh nghiệp sẽ kê khai bổ sung vào kỳ phát hiện việc sai sót (không phải vào kỳ phát sinh việc sai sót) để thống nhất trong cách hiểu và thực hiện.
Tuy nhiên, đối với trường hợp doanh nghiệp kê khai sai, trong đó có các trường hợp sử dụng hoá đơn bất hợp pháp, để tăng số tiền thuế được khấu trừ, được hoàn, thì nội dung sửa đổi của Cơ quan soạn thảo theo hướng áp dụng Điều 47 Luật Quản lý thuế là không phù hợp vì quy định này cho phép doanh nghiệp vẫn được bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi đã có quyết định thanh tra, kiểm tra thuế, làm mất hiệu lực của công tác thanh tra, hậu kiểm và không phù hợp thông lệ quản lý thuế. Vì vậy, đối với các trường hợp kê khai sai, đề nghị giữ như quy định hiện hành.
Về điều kiện khấu trừ thuế, áp dụng thuế suất 0%, ông Lê Quang Mạnh cho biết, dự thảo Luật bổ sung quy định “…chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài” và giao “Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định…”. Đây là những nội dung mới và liên quan trực tiếp tới vấn đề quản lý thu thuế GTGT đối với các nhà cung cấp nước ngoài bán hàng hoá, dịch vụ vào Việt Nam trên cơ sở nền tảng số. Đề nghị Cơ quan soạn thảo làm rõ các quy định đang được hướng dẫn hiện nay cũng như định hướng quy định tại các văn bản dưới luật đối với nội dung này.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật bổ sung quy định về điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. Ủy ban Tài chính, Ngân sách tán thành việc bổ sung các quy định chặt chẽ hơn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý hoàn thuế GTGT, tránh tình trạng doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi, gây thất thoát cho NSNN. Tuy nhiên, để bảo đảm tính rõ ràng, cụ thể, minh bạch của các quy định, đề nghị xác định rõ các trường hợp đặc thù để có thể quy định cụ thể trong Luật mà không nên giao Chính phủ quy định vấn đề này.
Dự thảo Luật thuế GTGT (sửa đổi) gồm 04 Chương, 18 Điều, cụ thể như sau: Chương I. Những quy định chung, gồm 05 điều (từ Điều 1 đến Điều 5); Chương II. Căn cứ và phương pháp tính thuế, gồm 07 điều (từ Điều 6 đến Điều 12); Chương III. Khấu trừ, hoàn thuế, gồm 04 điều (từ Điều 13 đến Điều 16); Chương IV. Điều khoản thi hành, gồm 02 điều (Điều 17 và Điều 18).