PGS.TS. Lê Thị Trinh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học TN&MT Hà Nội phát biểu khai mạc hội thảo |
PGS.TS. Lê Thị Trinh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học TN&MT Hà Nội cho biết, hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và chia sẻ hệ thống cơ sở dữ liệu trong đào tạo, quản lý tài nguyên môi trường là những hoạt động trọng tâm hàng đầu của Trường Đại học TN&MT Hà Nội; góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường sự hợp tác, kết nối trong nghiên cứu khoa học với các đối tác trong và ngoài nước.
Hội thảo đã tập trung vào các vấn đề chủ yếu như: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu số ngành tài nguyên và môi trường phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học; các giải pháp tích hợp, bảo mật và khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu số trong quản trị tổ chức và nghiên cứu khoa học; giải pháp số hóa dữ liệu thông minh trong quản lý lĩnh vực tài nguyên và môi trường và lĩnh vực đào tạo; chuyển đổi số trong cơ sở giáo dục đại học, các tổ chức và doanh nghiệp; trao đổi, chia sẻ việc khai thác và tạo lập cơ sở dữ liệu số phục vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ lĩnh vực tài nguyên và môi trường.
Trong đó, một trong những nội dung được quan tâm là giải pháp kết nối, chia sẻ cơ sở dữ liệu lĩnh vực tài nguyên môi trường cho các bên liên quan. Theo ông Mai Đức Anh – Cục Công nghệ thông tin và Dữ liệu tài nguyên môi trường, Bộ TN&MT đã xây dựng nền tảng chia sẻ, kết nối, tích hợp với các hệ thống thông tin của Chính phủ, Bộ ngành và địa phương; cung cấp các dịch vụ thông tin dữ liệu cho các hệ thống trong và ngoài Bộ sử dụng; lưu trữ các cấu trúc, dữ liệu chính, dùng chung trong ngành TN&MT phục vụ việc cung cấp, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin.
PGS.TS. Phạm Quý Nhân - Trường Đại học TN&MT Hà Nội chia sẻ thông tin về ứng dụng khoa học cộng đồng và điện thoại thông minh trong thủy văn – tài nguyên nước tại hội thảo |
Ngoài ra, ứng dụng khoa học cộng đồng và điện thoại thông minh trong thủy văn – tài nguyên nước và thực trạng ở Việt Nam cũng là chủ đề gây chú ý. PGS.TS. Phạm Quý Nhân - Trường Đại học TN&MT Hà Nội cho biết: Mỹ đã áp dụng mô hình khoa học cộng đồng trong quan trắc tài nguyên nước để đưa ra bức tranh tổng thể về tình hình nguồn nước lưu vực sông Kathmandu (Nepal), vùng kham hiếm các nguồn dữ liệu. Các nghiên cứu chuyên sâu cũng phản ánh được tính hiệu quả của cách tiếp cận này trong quan trắc lưu lượng, quan trắc định tính và định lượng các đại lượng thủy văn trong các trận lũ ở các sông suối nhỏ, hay sự tham gia của cộng đồng giúp cải thiện độ chính xác của các mô hình lũ khu vực đô thị.
Với sự gia tăng của các thiết bị di động, công nghệ web 2.0, khoa học cộng đồng được áp dụng ngày càng phổ biến người dân có thể t chủ động tham gia vào quá trình quan trắc, điều tra, thu thập dữ liệu thủy văn - tài nguyên nước.
Quang cảnh hội thảo |
PGS.TS. Phạm Quý Nhân chia sẻ, năm 2016, ông và cộng sự đã giới thiệu mô hình khoa học cộng đồng, cách tiếp cận mới trong khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước. Nghiên cứu đã giới thiệu khái quát về mô hình khoa học cộng đồng và khía cạnh nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn nước. Trong những năm gần đây, mô hình này cũng đã được áp dụng trong việc quan trắc mực nước trên Sông Nhuệ dựa vào các bức ảnh được chụp từ cộng đồng và chia sẻ trên fanpage riêng của nhóm, phân loại sử dụng đất, hay phân tích chất lượng nước.
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm |
Nghiên cứu trên đã chứng minh được tiềm năng của khoa học cộng đồng trong việc hỗ trợ các phương pháp truyền thống để thu thập dữ một cách hiệu quả. Cụ thể, mô hình này giúp cải thiện độ chính xác và giảm chi phí thu thập dữ liệu. Tuy nhiên, ông khẳng định, hầu hết các nghiên cứu hiện nay chưa áp dụng các ứng dụng thu thập dữ liệu trên điện thoại thông minh, để thuận tiện cho việc quản lý, khai thác dữ liệu.
Phó Hiệu trưởng Lê Thị Trinh mong rằng, hội thảo là diễn đàn khoa học để các nhà khoa học chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, kết quả nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, các giải pháp về hoàn thiện cơ chế chính sách; bổ sung và hoàn thiện các quy định kỹ thuật; thiết lập, vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu ngành, liên ngành; xây dựng và phát triển các ứng dụng tri thức, hệ thống khai thác và quản lý thông minh; hợp tác quốc tế, đào tạo, chuyển giao công nghệ và truyền thông trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường.