Quê tôi Sơn La, men theo những triền núi, bờ sông là nơi đồng bào dân tộc thiểu số cư ngụ. Người dân đa phần sống với nghề nông, bản làng khuất sau những ngọn đồi thăm thẳm. Do ở vị trí cao, địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn khiến đồng bào nơi đây không thể canh tác theo phương thức thông thường. Với khả năng sáng tạo, đồng bào đã phát minh ra các cọn nước với cơ chế hoạt động độc đáo, sử dụng chúng như một chiếc máy dẫn nước vào tưới ruộng, phục vụ sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi thủy cầm, nuôi cá ao hoặc dẫn nước về bản làng để sinh hoạt.
Theo một số nhà nghiên cứu về cộng đồng các dân tộc Thái, Mường, Tày, Lự, Dao… đồng bào ở khu vực miền núi Tây Bắc được coi là những người làm cọn nước giỏi nhất với những cọn nước đủ các kích thước và hoạt động rất hiệu quả. Để làm ra chiếc cọn nước, người ta lấy vật liệu từ rừng như: tre, nứa, gỗ, mây, vầu… tạo nên chiếc guồng hình tròn có đường kính khác nhau tùy theo khoảng cách mặt sông, suối với mặt ruộng để đưa nước lên, chiều cao của guồng nước phải cao hơn mặt ruộng ít nhất một nửa sải tay trở lên. Nhờ các nan cọn được nối với trục quay thành khung vững chắc, những sợi dây mây, dây thừng dẻo dai buộc chặt mà guồng được dựng vững chãi, ngày đêm cần mẫn đưa nước lên ruộng.
Cọn nước không ầm ào tiếng máy, không hao tốn nhiên liệu hay điện năng như những chiếc máy bơm mà giá trị của nó thì không hề thua kém. Không đơn thuần chỉ là một công trình thủy lợi, chiếc cọn nước đã trở thành một biểu tượng, là bản sắc văn hóa độc đáo, là chứng nhân cho một nền văn minh lúa nước, góp phần làm phong phú cho nền văn hóa các dân tộc.
Ngắm nhìn những thung lũng ruộng bậc thang trải dài óng ả miền sơn cước Tây Bắc, ít ai biết rằng, nhờ những cọn nước độc đáo mà vùng đất cằn cỗi, khó nhọc này đã được khoác áo mới. Ngày trước, đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây chỉ biết canh tác theo tập quán “chọc lỗ tra hạt”, cuộc sống khó khăn thiếu thốn bộn bề, đói nghèo quanh năm.
Ông Lò Văn Sây - Chủ tịch xã Ngọc Chiến, huyện Mường La tâm sự rằng, trước đây, người nông dân canh tác theo phương thức thông thường, địa hình khó khăn do ở khu vực cao, thiếu nước, đồng bào vẫn ngày đêm miệt mài chẳng kể ngày đêm gánh từng thau nước lên tưới cho cây trồng. Tuy vậy, sức người có hạn, nguồn nước thiếu thốn, cây trồng chẳng thể sinh sôi, từng cây lúa, ngọn cỏ nằm ngả nghiêng héo rũ. Các cư dân Tây Bắc đã sớm biết chế tạo và sử dụng cọn nước như một chiếc máy dẫn nước vào tưới ruộng, phục vụ sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi...
Nước từ sông suối được các cọn nước đưa lên, ập vào mương, chảy vào ruộng, vừa đủ để tưới ẩm từng mầm cây be bé. Hạt giống từ đó bám rễ vào lòng đất, vươn mầm nhô lên đón tia nắng bình minh. Đáp lại công người vun ven, cây trồng từng ngày trổ lá, ra hoa. Những bông lúa vàng ươm, ngậm sữa căng đầy, chắc mẩy, rung rinh đậu trên khắp núi đồi, báo hiệu một mùa bội thu.
Ngoài phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, ngày nay, những chiếc cọn nước này đã trở thành nét đặc trưng riêng khi du lịch nơi vùng cao Tây Bắc. Chiếc cọn nước gắn với đời sống nhiều thế hệ, chứa đựng biết bao tâm huyết và trí tuệ của đồng bào dân tộc. Chính vì thế, bảo tồn những vòng quay của cọn nước góp phần lưu giữ bản sắc văn hóa các dân tộc, cũng là gìn giữ một lối sống trong lành, gần gũi với thiên nhiên của đồng bào các dân tộ Tây Bắc.