Ảnh minh hoạ |
Công cụ quản lý để nâng cao chất lượng đào tạo
Theo quy định về chuẩn chương trình đào tạo đối với các trình độ giáo dục đại học do Bộ GD&ĐT ban hành, khối lượng học tập tối thiểu với cử nhân là 120 tín chỉ, thạc sĩ là 60 tín chỉ nếu trình độ đại học cùng nhóm ngành.
Thông tư quy định chương trình đào tạo; xây dựng, thẩm định và phê duyệt chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học đưa ra các quy định chuẩn chương trình đào tạo trình độ giáo dục đại học về mục tiêu, chuẩn đầu ra, khối lượng học tập, cấu trúc và các yêu cầu tối thiểu thực hiện chương trình đào tạo.
Cụ thể, thông tư này quy định, chuẩn đầu vào đối với bậc cử nhân ở chương trình đào tạo đại học và chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ bậc 7 là người học phải tốt nghiệp THPT hoặc trình độ tương đương. Khối lượng học tập tối thiểu được yêu cầu là 120 tín chỉ, cộng với khối lượng giáo dục thể chất, giáo dục quốc phòng - an ninh theo quy định hiện hành.
Một tín chỉ được tính tương đương 50 giờ học tập định mức của người học, bao gồm cả thời gian dự giờ giảng, giờ học có hướng dẫn, tự học, nghiên cứu, trải nghiệm và dự kiểm tra, đánh giá.
Riêng với các chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ bậc 7, khối lượng tối thiểu phải là 150 tín chỉ, cộng với khối lượng giáo dục thể chất, giáo dục quốc phòng - an ninh theo quy định hiện hành hoặc 30 tín chỉ đối với người có trình độ đại học thuộc cùng nhóm ngành.
Đối với khối lượng học tập tối thiểu đối với các chương trình đào tạo song ngành phải cộng thêm 30 tín chỉ, đối với chương trình đào tạo ngành chính - ngành phụ phải cộng thêm 15 tín chỉ so với chương trình đào tạo đơn ngành tương ứng.
Về cấu trúc và nội dung chương trình đào tạo, yêu cầu cụ thể đối với chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ bậc 7 là khối lượng thực tập tối thiểu 8 tín chỉ.
Ở bậc thạc sĩ, chuẩn đầu vào của chương trình đào tạo thạc sĩ là người học phải tốt nghiệp đại học (hoặc trình độ tương đương trở lên) ngành phù hợp; có trình độ ngoại ngữ bậc 3 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương.
Đối với chương trình đào tạo thạc sĩ theo định hướng nghiên cứu, người học phải tốt nghiệp đại học hạng khá trở lên hoặc có công bố khoa học liên quan đến lĩnh vực sẽ học tập. Chương trình đào tạo thạc sĩ yêu cầu tối thiểu 60 tín chỉ đối với người có trình độ đại học thuộc cùng nhóm ngành.
Về cấu trúc và nội dung chương trình đào tạo, yêu cầu đối với chương trình đào tạo thạc sĩ nếu theo định hướng nghiên cứu là khối lượng nghiên cứu khoa học phải từ 24 - 30 tín chỉ, bao gồm 12 - 15 tín chỉ cho luận văn, 12 - 15 tín chỉ cho các đồ án, dự án, chuyên đề nghiên cứu khác. Nếu đó là định hướng ứng dụng, nội dung thực tập phải từ 6 - 9 tín chỉ; học phần tốt nghiệp phải từ 6 - 9 tín chỉ dưới hình thức đề án, đồ án hoặc dự án.
Ở bậc tiến sĩ, chuẩn đầu vào của chương trình đào tạo tiến sĩ phải là người tốt nghiệp thạc sĩ hoặc chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ bậc 7 ngành phù hợp hoặc tốt nghiệp hạng giỏi trình độ đại học (hoặc trình độ tương đương trở lên) ngành phù hợp; có trình độ ngoại ngữ bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (hoặc trình độ tương đương trở lên); có năng lực, kinh nghiệm nghiên cứu.
Chương trình đào tạo tiến sĩ yêu cầu tối thiểu 90 tín chỉ với người có trình độ thạc sĩ hoặc 120 tín chỉ với người có trình độ đại học thuộc cùng nhóm ngành. Về cấu trúc và nội dung chương trình đào tạo, yêu cầu đối với chương trình đào tạo tiến sĩ tối thiểu 80% nghiên cứu khoa học và luận án tiến sĩ; tối đa 16 tín chỉ các học phần, môn học bắt buộc hoặc tự chọn đối với đầu vào trình độ thạc sĩ; tối thiểu 30 tín chỉ các học phần, môn học bắt buộc hoặc tự chọn đối với đầu vào trình độ đại học.
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 7/8/2021, áp dụng đối với các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục khác được phép đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, Viện Hàn lâm và Viện do Thủ tướng Chính phủ thành lập theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ.
Sáu điểm mới quan trọng
Theo Vụ Giáo dục Đại học, Thông tư có nhiều điểm mới. Thứ nhất, chương trình đào tạo phải đảm bảo phù hợp với Khung trình độ quốc gia Việt Nam cũng như chuẩn chương trình theo nhóm ngành, lĩnh vực.
Thứ hai, các cơ sở giáo dục đại học hoàn toàn tự chủ và linh hoạt trong quá trình xây dựng, phát triển các chương trình đào tạo để khẳng định uy tín, thương hiệu của trường mình.
Thứ ba, với tiếp cận xuyên suốt theo hướng quản lý chất lượng đầu ra, việc “đánh giá đạt chuẩn đầu ra chương trình đào tạo” được xem là một yêu cầu mới đối với quản lý chất lượng đào tạo. Cách tiếp cận quản lý chất lượng này yêu cầu các cơ sở giáo dục đại học không chỉ minh bạch chuẩn đầu ra cho các bên liên quan mà còn phải cung cấp được minh chứng người tốt nghiệp đạt được những chuẩn đầu ra mà cơ sở giáo dục đại học đã tuyên bố với người học và các bên liên quan cũng như toàn xã hội.
Thứ tư, để đảm bảo quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học, Thông tư không quy định cụ thể theo hướng “cầm tay chỉ việc” mà quy định những yêu cầu cơ sở giáo dục đại học cũng như các bên liên quan cần thực hiện trong mỗi nội dung công việc liên quan đến chất lượng các chương trình đào tạo.
Thứ năm, các nội dung quy định về chuẩn chương trình đào tạo đảm bảo đầy đủ các yếu tố cấu thành để phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong đối với chương trình đào tạo, làm cơ sở đối sánh trong quá trình kiểm định chương trình đào tạo. Cách tiếp cận này hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học có cơ chế “tự bảo vệ sức khỏe” bền vững cho các chương trình đào tạo và tạo tiền đề quan trọng để các chương trình đào tạo đạt được tiêu chuẩn kiểm định chất lượng trong nước cũng như của quốc tế.
Thứ sáu, quản lý chuẩn đầu ra không chỉ dừng lại ở việc minh bạch chất lượng chương trình đào tạo cho các bên liên quan mà còn phải “sử dụng kết quả đánh giá chương trình đào tạo để cải tiến chất lượng liên tục”. Đây chính là triết lý chính của bảo đảm chất lượng mà các nhà giáo dục trên thế giới vẫn đang hướng đến và cũng là một thực hành tốt hiện các nước có nền giáo dục tiên tiến đang áp dụng.