Ông Minh được biết, theo quy định, cá nhân Việt Nam không được cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuê quyền sử dụng đất. Ông hỏi, việc tiếp tục cho thuê quyền sử dụng đất trong trường hợp của ông có hợp pháp không? Hợp đồng cho thuê của ông (có công chứng đầy đủ) còn giá trị không? Có cần thay đổi gì không?
Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời vấn đề này như sau:
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có quyền và nghĩa vụ chung theo quy định Điều 166 và Điều 170 của Luật Đất đai năm 2013; quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định tại Điều 167 Luật Đất đai; điều kiện thực hiện quyền cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận theo quy định tại Điều 168 Luật Đất đai; trường hợp người sử dụng đất được chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc được ghi nợ nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện xong nghĩa vụ tài chính trước khi thực hiện các quyền.
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao trong hạn mức; đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất; đất nhận chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế thì có quyền cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam thuê quyền sử dụng đất theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 179 Luật Đất đai.
Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm có quyền cho thuê tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê theo quy định của pháp luật về dân sự, không được cho thuê quyền sử dụng đất theo quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 179 Luật Đất đai.
Như vậy, đề nghị ông căn cứ quy định của pháp luật về đất đai hiện nay để thực hiện theo đúng quy định.