Bộ TN&MT thẩm định kết quả Dự án 47 - ĐCCT
(TN&MT) - Sáng 21/8, Bộ TN&MT tổ chức cuộc họp Hội đồng thẩm định kết quả Dự án “Điều tra, đánh giá đặc điểm cấu trúc địa chất, địa chất công trình, đề xuất các giải pháp khai thác, sử dụng lãnh thổ phục vụ xây dựng và phát triển hạ tầng dải ven bờ biển Việt Nam” (Dự án 47 - ĐCCT). Thừa ủy quyền của Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên, Cục trưởng Cục Địa chất Việt Nam Trần Bình Trọng chủ trì cuộc họp.
Dự án do Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển (Cục Địa chất Việt Nam) chủ trì thực hiện. Báo cáo tại cuộc họp, ông Trần Ngọc Diễn - Phó Liên đoàn trưởng Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển, chủ nhiệm dự án cho biết, kết quả thực hiện dự án đã hoàn thành toàn bộ mục tiêu đã được phê duyệt. Cụ thể, dự án đã xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu thống nhất về cấu trúc địa chất, địa chất công trình dải ven bờ biển Việt Nam tỷ lệ 1:100.000 và các khu vực trọng điểm (Nam Định, Thanh Hóa, Quảng Trị và Cà Mau) tỷ lệ 1:25.000.
Đồng thời, dự án đã phân vùng địa chất công trình cho toàn bộ dải ven biển Việt Nam ở tỷ lệ 1:100.000 và phân khu địa chất công trình ở tỷ lệ 1:25.000 cho các khu vực trọng điểm (Nam Định, Thanh Hóa, Quảng Trị và bán đảo Cà Mau), phục vụ cho đa mục tiêu, đa lĩnh vực: quy hoạch xây dựng công trình biển; quy hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường dải ven bờ biển của các ngành, địa phương, quy hoạch phát triển kinh tế biển.
Bên cạnh đó, dự án tạo cơ sở dữ liệu đồng bộ về cấu trúc địa chất, địa chất công trình của dải đất liền tiếp giáp biển và dải biển ven bờ Việt Nam nhằm đề xuất được các giải pháp khai thác, sử dụng hợp lý và bảo vệ dải ven bờ biển, thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển.
Dự án cũng góp phần củng cố và nâng cao năng lực, trình độ cho lực lượng kỹ thuật điều tra địa chất, khoáng sản biển, từng bước hình thành đội ngũ kỹ thuật chuyên ngành đáp ứng yêu cầu công tác điều tra địa chất, khoáng sản biển trong giai đoạn mới.
Theo chủ nhiệm dự án, công tác tổ chức thi công tuy gặp nhiều khó khăn (khoan biển, điều tra vùng ngập nước Cà Mau...), nhưng các đơn vị thi công đã cố gắng tổ chức tốt, nhất là công tác khoan biển. Hơn nữa, công tác kiểm tra của đơn vị thực hiện, đơn vị chủ trì, cơ quan cấp trên thực hiện đều đặn hàng năm, đảm bảo yêu cầu.
Chủ nhiệm Trần Ngọc Diễn cho rằng, kết quả nghiên cứu địa chất công trình của Dự án là cơ sở khoa học quan trọng cho việc đề xuất định hướng quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng. Ông đề xuất, song song với sự phát triển kinh tế, cần điều tra, lập được bộ bản đồ địa chất công trình tỷ lệ 1:25.000 tại các địa phương ven biển.
Ngoài ra, đới bờ biển Việt Nam hiện nay có xu thế xói lở mạnh hơn bồi tụ, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Các số liệu, tài liệu về biến động đường bờ hiện nay có nhiều nguồn, chủ yếu của các địa phương ven biển và kết quả các đề tài nghiên cứu, số liệu chưa đồng bộ. Do vậy, cần đầu tư thực hiện một Đề án đánh giá tổng thể về biến tai biến đới bờ biển Việt Nam để nghiên cứu chi tiết các dạng tai biến ảnh hưởng đến dải ven bờ biển Việt Nam.
Đánh giá báo cáo tổng kết Dự án 47 - ĐCCT, PGS.TS. Đinh Xuân Thành - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, ủy viên Hội đồng cho biết: Dự án đã áp dụng các phương pháp và thực hiện các dạng công tác theo đề án được phê duyệt. Khối lượng thực hiện được thống kê theo các phương pháp và dạng công việc đảm bảo theo đúng các Quyết định phê duyệt và điều chỉnh dự án.
Dự án đã thu thập, xử lý và tổng hợp khối lượng khổng lồ tài liệu và số liệu về địa chất, địa vật lý, địa chất công trình và nhiều tài liệu, số liệu khác liên quan đảm bảo độ tin cậy để thành lập 2 nhóm tờ bản đồ quan trọng: bản đồ địa chất công trình và bản đồ phân vùng địa chất công trình.
Theo GS.TS. Trần Nghi, Tổng hội Địa chất Việt Nam, ủy viên phản biện, báo cáo đã hoàn thành mục tiêu đề ra của dự án, làm sáng tỏ đặc điểm địa chất, địa chất công trình đới bờ Việt Nam, định hướng công tác quản lý, quy hoạch đới bờ. Dự án đã thành lập bộ bản đồ địa chất đệ tứ, cấu trúc địa chất, địa chất công trình nhằm phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng bền vững, phát triển kinh tế biển.
Tại cuộc họp, các ủy viên Hội đồng cũng đã trao đổi, góp ý về các sản phẩm, kết quả của dự án, nội dung, hình thức báo cáo, nội dung báo cáo kinh tế…
Kết luận cuộc họp, thừa ủy quyền của Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên, Cục trưởng Cục Địa chất Việt Nam Trần Bình Trọng ghi nhận những kết quả của dự án, đồng thời đánh giá cao đơn vị đã hoàn thành các mục tiêu, nội dung của đề án đã được phê duyệt trong điều kiện thi công trên địa bàn rộng, gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19 và nhiều yếu tố khách quan khác.
Theo ông, hệ phương pháp, khối lượng thực hiện cơ bản bám sát các khối lượng nội dung đã được phê duyệt và điều chỉnh trong quá trình triển khai; đồng thời, số liệu có độ tin cậy và đã được cơ quan kiểm tra đánh giá qua các đợt kiểm tra đủ điều kiện để đưa vào báo cáo tổng kết.
Đặc biệt, Hội đồng thống nhất với những đóng góp mới của dự án như: Thành lập bản đồ địa chất công trình và bản đồ phân vùng địa chất công trình tỷ lệ 1/100.000 cho toàn dải ven biển Việt Nam; thành lập bản đồ địa chất công trình và bản đồ phân vùng địa chất công trình tỷ lệ 1/25.000 các vùng trọng điểm Nam Định, Thanh Hoá, Quảng Trị và Cà Mau.
Đồng thời, phân chia, đối sánh, thành lập các mặt cắt địa chất Đệ tứ và các cột địa tầng tổng hợp đặc trưng liên kết từ đất liền ra biển trên cơ sở xử lý tổng hợp từ tài liệu, số liệu khoan (trên đất liền và biển) và tài liệu địa chấn nông phân giải cao. Các mặt cắt này là cơ sở quan trọng để thành lập các mặt cắt địa chất công trình đới bờ.
Ngoài ra, thành lập bản đồ cấu trúc địa chất, bản đồ địa mạo đới bờ biển Việt Nam tỷ lệ 1/100.000 và tỷ lệ 1/25.000 các vùng trọng điểm làm cơ sở phân vùng địa chất công trình; đề xuất định hướng quy hoạch sử dụng các vùng lãnh thổ đất liền và biển ven bờ Việt Nam trên cơ sở đặc điểm địa chất công trình, đồng thời đề xuất phương pháp xử lý nền móng cho từng phân vùng địa chất công trình cụ thể.
Đánh giá báo cáo được trình bày chặt chẽ, logic, đảm bảo khoa học, Cục trưởng Trần Bình Trọng đề nghị chủ nhiệm dự án và đơn vị chủ trì tiếp thu ý kiến của các thành viên phản biện và ủy viên Hội đồng để hoàn thiện báo cáo.