47 năm trôi qua, chứng kiến bao biến động khó ngờ trên thế giới, vui mừng trước những thành quả đạt được, chúng ta càng thêm có dịp chiêm nghiệm, đánh giá, nhận thức sâu sắc về tầm vóc và giá trị lịch sử cuộc “đụng đầu” chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Xâm lược Việt Nam, âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta, thôn tính miền Nam, chia cắt lâu dài nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Nếu thành công, Mỹ sẽ có căn cứ quân sự ở ngay trên mảnh đất có vị thế cực kỳ quan trọng có giá trị như một phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam Á. Đồng thời, miền Nam sẽ là bàn đạp để tấn công miền Bắc. 5 đời tổng thống Mỹ kế tiếp nhau (Eisenhower, Kennedy, L.Johnson, Nixon, Ford) đều theo đuổi âm mưu ấy. Đất nước ta vì thế trở thành nơi thử thách sức mạnh của đế quốc Hoa Kỳ như chính bản thân giới cầm quyền Mỹ đã xác nhận.
Nhưng Mỹ và chế độ tay sai đã thất bại hoàn toàn. 21 năm trường kỳ kháng chiến, 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, xe tăng của quân Giải phóng đã húc đổ cánh cổng sào huyệt cuối cùng của chính phủ ngụy quyền; cờ Giải phóng tung bay trên nóc tòa nhà Dinh Độc Lập. Và sau lời tuyên bố chiến thắng của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, bài hát “Như có Bác trong ngày đại thắng” vang vang trên cả nước.
Thắng lợi của dân tộc Việt Nam là thất bại nặng nề nhất trong lịch sử nước Mỹ. Để rồi, 10 năm sau khi kết thúc chiến tranh (1985), cựu Tổng thống Richard Nixon đã viết cuốn hồi ký “No More Vietnam” (Không có thêm Việt Nam), thừa nhận những sai lầm và thất bại của cuộc chiến mà nước Mỹ đáng quên nhất. Còn trong hồi ký “In Retrospect” (Hồi tưởng), xuất bản năm 1995, Robert
McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, “kiến trúc sư” cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam thừa nhận, Mỹ đã mắc phải 11 sai lầm trong cuộc chiến tranh này.
Với thắng lợi vĩ đại mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dân tộc Việt Nam đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, 30 năm chiến tranh cách mạng, 117 năm chống đế quốc xâm lược, quét sạch quân xâm lược, giành lại nền độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước. Một dân tộc hòa hiếu yêu lẽ phải, công lý và chính nghĩa đã hy sinh hàng triệu con người để có ngày đất nước nở hoa độc lập nên rất hiểu giá trị của hòa bình và xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Từ đây, đất nước sẽ cùng nắm tay kết đoàn, hát vang bài ca lao động, đưa Tổ quốc sánh vai cùng cường quốc năm châu.
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ đi lên chủ nghĩa xã hội; làm tăng thêm sức mạnh vật chất tinh thần, thế và lực cho cách mạng. Uy tín nước ta được nâng cao trên trường quốc tế, công việc hội nhập diễn ra thuận lợi.
Chiến thắng lịch sử 30/4/1975 đã làm thất bại nhục nhã âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc tiến công vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới. Chúng ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ nghĩa đế quốc kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, làm phá sản các chiến lược chiến tranh thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ và tác động trực tiếp đến nội tình nước Mỹ.
Thắng lợi vĩ đại đó đã làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, cáo chung sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là biểu tượng, minh chứng rõ ràng nhất cho sự đúng đắn, sáng tạo trong đường lối lãnh đạo của Đảng. Giá trị của sự kiện lịch sử vẻ vang này là kết quả của việc Đảng ta đã vạch ra được một đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, có khả năng khai thác, động viên và tập hợp mọi lực lượng, hạn chế đến mức thấp nhất mọi trở lực, khoét sâu đến mức cao nhất những hạn chế, nhược điểm và khuyết điểm của đối phương. Đường lối thôi chưa đủ, còn là phương pháp cách mạng. Phương pháp là “chìa khóa” quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng, của Đảng trong cuộc chiến đấu vì chính nghĩa, vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của con người.
Khi mới bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã đặt ra 3 câu hỏi lớn cần giải đáp, trong đó câu hỏi thứ 3 là: Trong cuộc đụng đầu lịch sử giữa ta và địch, liệu chúng ta có đánh nổi và đánh thắng không? Trả lời cho câu hỏi đó, Đảng ta nhận định, “Mỹ là nước đế quốc giàu nhất, mạnh nhất trong các nước đế quốc, là nước có chiến lược toàn cầu và có tham vọng làm bá chủ thế giới… Mỹ giàu nhưng không mạnh. Nhân dân Việt Nam chẳng những không sợ Mỹ, quyết tâm kháng chiến và nhất định sẽ chiến thắng tuy phải trải qua nhiều bước quá độ mới đi đến thắng lợi”. Tinh thần ấy, quyết tâm ấy đã lan tỏa trong từng người, từng nhà. Nó kết tinh thành một sức mạnh to lớn, một bản lĩnh kiên cường trong mọi cuộc đối đầu trên chiến trường với quân thù xâm lược.
Tính cách người Việt luôn hướng tới cái trong sáng, cái cao cả. Sinh sống ở mảnh đất có nhiều kẻ thù, người Việt rất sùng bái những anh hùng đánh giặc giữ yên bờ cõi. Trong các vị “tứ bất tử”, có hai vị là anh hùng là Phù Đổng Thiên Vương và Tản Viên Sơn Thánh. Đấy là cách người Việt ghi công các anh hùng, ngưỡng vọng cái cao cả. Có thể nói, phẩm chất anh hùng luôn sẵn có trong huyết quản mỗi người Việt chân chính, khi kẻ thù xâm lăng Tổ quốc, phẩm chất ấy sẽ trỗi dậy mạnh mẽ.
Suốt chặng đường dựng nước và giữ nước của dân tộc, hình tượng và phẩm chất anh hùng như sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử. Hình tượng ấy được kết tinh từ tinh thần yêu nước, thương dân, vì dân, ý chí dũng cảm quật cường để ngày càng tô thắm những trang lịch sử bằng vàng của dân tộc và tỏa sáng rực rỡ trong thời khắc lịch sử 30/4/1975.
Bản hùng ca tháng Tư vang lên trên đất nước Việt Nam. Giai điệu chiến thắng hào hùng tháng Tư lấp lánh tinh thần của Hịch tướng sỹ, Cáo bình Ngô, Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc, Dáng đứng Việt Nam… là minh chứng hùng hồn khẳng định chân lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Đó là bản sắc văn hóa đã kết tụ thành nền văn hiến lâu đời, là truyền thống bền vững bốn nghìn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử là bệ phóng của tương lai. Từ bốn nghìn năm lịch sử, Việt Nam đường hoàng bước lên đỉnh cao Chiến thắng 30/4/1975.
Từ mốc son Chiến thắng 30/4/1975, dân tộc Việt Nam đã và sẽ viết tiếp những trang huyền thoại rực rỡ trong Thời đại Hồ Chí Minh.