Phát triển bền vững

Trượt lở đất đá: Hiểu để ứng phó kịp thời

Mai Anh 17:36 29/09/2023

(TN&MT) - Những năm gần đây, trượt lở đất đá là một trong số các dạng tai biến địa chất xảy ra với tần suất khá cao, mức độ trầm trọng và trên diện ngày càng rộng, gây nên nhiều thiệt hại về người và cơ sở vật chất cho cộng đồng. Chính vì vậy, người dân cũng như các cấp chính quyền cần có hiểu biết đầy đủ về hiện trạng, nguyên nhân, cũng như cơ chế và quá trình hình thành các loại trượt lở đất đá cùng với các dấu hiệu nhận biết và cách phòng tránh.

z3789612836014_28e971b4908415b40f6fcaf0360f5c0e.jpg
Lưu vực có khả năng xảy ra trượt sâu tại bản Sài Khao, xã Mường Lý, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa

Khái niệm và phân loại trượt lở đất đá

Theo PGS.TS Nguyễn Xuân Khiển, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường, trượt lở đất đá là sự di chuyển của khối đá, mảng vụn hay đất xuống sườn dốc, khi ứng suất cắt vượt quá độ bền cắt của vật liệu.

Tuy nhiên, theo định nghĩa một cách hàn lâm, trượt đất là quá trình di chuyển của những khối đất đá trên sườn dốc, trong đó ít xảy ra sự đổ vỡ hoặc đảo lộn tính nguyên khối của chúng. Trượt đất có thể xảy ra chậm chạp, thường chỉ có thể ghi nhận được nhờ các thiết bị đo đạc chính xác, song trong nhiều trường hợp cũng có thể xảy ra nhanh, mang tính đột biến. Khác với trượt đất, lở đất thường xảy ra nhanh, cấu trúc đất đá của khối lở đất thường bị xáo trộn, phá hủy đáng kể. Lở đất thường là bước phát triển kế tiếp của khối trượt đất thuần túy trong điều kiện mặt trượt dốc và chân khối trượt không còn khả năng chống đỡ tự nhiên. Sự chuyển từ trạng thái trượt sang lở đất là khá phổ biến và tác hại của hiện tượng này tăng lên đáng kể. Thuật ngữ trượt lở đất đá để chỉ hiện tượng kết hợp của cả hai quá trình tai biến này.

Theo đó, trượt lở đất đá được xem là một hiện tượng tai biến tự nhiên xảy ra khi khối đất đá trên sườn dốc bị mất thế cân bằng, các lực gây trượt vượt quá các lực kháng trượt dưới tác động tiêu cực của các quá trình địa chất - địa động lực, sự phát triển của thực vật, quá trình sử dụng đất, các hoạt động tai biến địa chất và biện pháp phòng ngừa, giảm nhẹ thiệt hại nhân sinh, cũng như tần suất, cường độ lắng đọng trầm tích, chấn động, độ dốc sườn và các tính chất về thành phần thạch học, đặc điểm cơ lý của nền đất đá.

Về vấn đề phân loại các kiểu trượt lở đất đá, trong quá trình nghiên cứu - điều tra tai biến trượt lở đất đá, có nhiều hệ thống phân loại, trong đó có hai hệ thống được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là ở các nước phương Tây: Hệ thống phân loại do Hutchinson (1968); Skempton & Hutchinson (1969) đề xuất và Hệ thống phân loại do Varnes (1978, 1984) đề xuất.

Những nguyên nhân nào dẫn đến trượt lở đất?

Theo Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, nguyên nhân dẫn đến trượt, sạt lở đất, đá do nhiều yếu tố, gồm có yếu tố ngoại sinh (như mưa, bão, lũ, lụt, các quá trình phong hóa đất đá,...); yếu tố nội sinh (như động đất) hay do hoạt động của con người (phá rừng, san lấp, cắt, xẻ sườn đồi, núi để xây dựng đường sá, nhà cửa và công trình khác). Những sự cố trượt lở trong quá khứ cũng tiềm ẩn nguy cơ trượt tiếp trong tương lai.

Trượt lở đất để lại những hậu quả gì?

Theo các nhà địa chất, trượt lở đất gây thiệt hại đến tính mạng con người và tài sản, đồng thời gây nhiều thiên tai và thảm họa thứ sinh khác: Tạo đập chắn chặn dòng chảy tạm thời, khi vỡ đập gây lũ quét, lũ lụt; sập đổ lớn có thể gây cháy, nổ. Mỗi năm, thế giới ghi nhận hàng nghìn người thiệt mạng do sạt lở đất. Tại Mỹ, con số này rơi vào khoảng 25-50 người/năm.

Dấu hiệu nhận biết sạt lở đất

Theo Ban Chỉ đạo Quốc gia về Phòng, chống thiên tai, dấu hiệu nhận biết sạt lở đất gồm: mưa nhiều ngày/mưa lớn; vết nứt tường nhà, sườn đồi, mái dốc, cây nghiêng, nước sông, suối từ trong chuyển màu thành nước đục…; mặt đất phồng lên, cây cối rung chuyển, âm thanh lạ trong lòng đất.

Biện pháp ứng phó với trượt lở đất

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chỉ ra một số biện pháp phi công trình với sạt lở đất gồm: Sử dụng các kết quả bản đồ đánh giá rủi ro để xác định các vị trí có nguy cơ xảy ra sạt lở đất; tăng cường công tác dự báo mưa: Bổ sung các trạm đo mưa, tăng độ chính xác của bản tin dự báo mưa; sử dụng các công nghệ tiên tiến cảnh báo sớm; thông tin, truyền tin, cảnh báo sớm đến người dân; tổ chức cắm các biển hiệu cảnh báo khu vực nguy hiểm.

z3789612817985_59ab671f33e8ec76a8aa52c80f6b1514.png
Lưu vực có khả năng xảy ra trượt sâu tại bản Sài Khao, xã Mường Lý, huyện Mường Lát tỉnh Thanh Hóa, với vết nứt kéo dài hơn 300m

Đồng thời, tiến hành quy hoạch sử dụng đất để phục vụ công tác di dời người dân, trồng rừng, phát triển nông nghiệp, bố trí dân cư an toàn gắn với sinh kế bền vững; tăng cường nâng cao nhận thức, kiến thức cho người dân để phòng tránh, giảm thiểu; rà soát, thống kê, lập phương án sơ tán, di dời dân khỏi vùng có nguy cơ cao xảy ra sạt lở đất.

Bên cạnh đó, còn có một số biện pháp công trình như: Đối với các khu có mật độ dân cư cao, các công trình lịch sử, hạ tầng cơ sở quan trọng có thể được bảo vệ bằng hệ thống tường kè bao kết hợp các rãnh thoát nước; lắp đặt các hệ thống cảnh báo, đo đạc, ống thu nước ngầm tại các khu vực có nguy cơ cao về sạt lở đất. Các biện pháp trên cần được kết hợp, tùy thuộc vào trường hợp cụ thể của từng địa phương và nguồn kinh phí được bố trí để lựa chọn phù hợp.

Những việc cần làm thường xuyên, nên làm và không nên làm để ứng phó với sạt lở đất

Theo Ban Chỉ đạo Quốc gia về Phòng, chống thiên tai, những việc cần làm thường xuyên để đảm bảo an toàn trước sạt lở đất gồm: thường xuyên theo dõi tin tức trên báo, đài và ti vi về các đợt mưa lớn, kéo dài, nguy cơ sạt lở đất cao; gia cố nhà cửa, đập tạm, khơi thông dòng chảy trước mùa mưa lũ; chủ động chuẩn bị thức ăn, nước uống, thuốc và đồ sơ cứu y tế, đèn pin, cuốc, xẻng, cuộn dây…; trồng cây, bảo vệ rừng để giảm thiểu nguy cơ sạt lở đất.

Ngoài ra, chúng ta cần hướng dẫn các thành viên trong gia đình, đặc biệt trẻ em, người già, người khuyết tật những biện pháp phòng tránh cần thiết; không nên xây nhà ở những khu vực đã từng xảy ra lũ quét, sạt lở đất, khu vực ven sông, suối, sườn dốc, gần mái dọc đường giao thông.

Đặc biệt, chúng ta cần tìm hiểu xem ở khu vực gần nhà mình đã từng xảy ra sạt lở đất chưa, chủ động quan sát các dấu hiệu sạt lở đất; kịp thời báo cáo chính quyền địa phương khi phát hiện dấu hiệu sạt, lở đất.

Ban Chỉ đạo Quốc gia về Phòng, chống thiên tai cho biết, những việc không nên làm để ứng phó với sạt lở đất gồm: Không được đi qua và lại gần quanh khu vực sạt lở đất; không được đánh cá, vớt củi, bơi lội qua sông, suối khi có mưa lớn hoặc nếu thấy nước có dấu hiệu bất thường như nước sông suối từ trong chuyển sang đục dần; không đi gần khu vực cầu, cống khi nước đang lên, dòng chảy mạnh.

Những việc nên làm để ứng phó với sạt lở đất gồm: Theo dõi thông tin cảnh báo lũ quét, sạt lở đất, thông báo cho chính quyền và những người xung quanh khi có dấu hiệu; sẵn sàng sơ tán theo hướng dẫn của chính quyền địa phương, cần bảo vệ tính mạng trước tiên; chạy nhanh ra khỏi nơi nguy hiểm khi nghe hoặc nhận thấy tiếng động lớn hoặc dấu hiệu không bình thường.

Bài liên quan
  • Phân vùng sạt lở để chủ động phòng tránh
    (TN&MT) - Trượt lở, lũ bùn đá, lũ ống, lũ quét là những hiện tượng thiên tai vô cùng nguy hiểm, hàng năm đều gây thiệt hại về người và tài sản cho tại các tỉnh miền núi. Nhằm giảm thiểu rủi ro, tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo, các nhà khoa học của Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản đã xây dựng bản đồ phân vùng phục vụ phòng chống thiên tai một cách chủ động hơn.

(0) Bình luận
Nổi bật
Bá Thước (Thanh Hóa): Nhiều điển hình sản xuất kinh doanh giỏi
Trong những năm qua, nhờ có nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế ở các huyện miền Núi, vùng sâu, vùng xa đã có nhiều khởi sắc. Đặc biệt, chỉ trong 2 năm 2021- 2023, huyện Bá Thước có 5 tập thể và 21 cá nhân được Chủ tịch UBND huyện tặng Giấy khen đạt thành tích xuất sắc trong phong trào nông dân thi đua SXKD giỏi cấp huyện, 30 cá nhân và 4 tập thể được Hội Nông dân khen thưởng.
Đừng bỏ lỡ
  • Bắc Quang – Hà Giang: Đưa nhiều chương trình vì mục tiêu giảm nghèo tới gần người dân
    Hàng loạt chương trình mục tiêu giảm nghèo của Trung ương và tỉnh Hà Giang đang được huyện Bắc Quang tích cực triển khai sâu rộng tới người dân thông qua các kế hoạch, đề án, dự án cụ thể và có kiểm tra, giám sát nghiêm túc, nhờ đó bước đầu đã giải quyết việc làm, tạo sinh kế bền vững cho người dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa của huyện Bắc Quang.
  • Phú Yên: Tìm giải pháp cho những công trình nước sạch vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS
    (TN&MT) - Phú Yên là một trong số những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán. Người dân nhiều địa phương trong tỉnh, đặc biệt là khu vực miền núi thường xuyên thiếu nước sinh hoạt. Tuy nhiên, nghịch lý là hiện nay hàng chục công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung do Nhà nước đầu tư xây dựng đã bị bỏ hoang từ nhiều năm qua.
  • Nuôi dê thương phẩm giúp nhiều hộ dân đổi đời
    Thời gian qua, việc chia sẻ kinh nghiệm nuôi dê thương phẩm và liên kết trong chăn nuôi, bao tiêu sản phẩm đang từng bước đem lại hiệu quả kinh tế lớn, đồng thời mở ra hướng đi mới cho hàng chục hộ dân ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Theo số liệu báo cáo, ước tính tổng đàn Dê thương phẩm của huyện đến hết tháng 6/2023 đạt khoảng 10.000 con.
  • Mường Lát (Thanh Hóa): Cuộc sống mới ở khu tái định cư
    Bản Ón, xã Tam Chung, huyện Mường Lát (Thanh Hóa) có 100% là đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Đa số người dân trong bản thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo. Phần lớn các hộ dân dựng nhà bên những sườn núi cheo leo, nên luôn phải đối mặt với nguy cơ lũ quét, sạt lở rất cao vào mùa mưa lũ. Nhưng giờ đây người dân trong bản không còn phải nơm nớp lo sợ, bởi khu tái định cư do Nhà nước đầu tư khang trang, đồng bào đã và đang bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
  • Bắc Quang - Hà Giang: Nỗ lực giúp dân xóa nghèo bền vững
    Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 1/11/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang về Chương trình cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ để tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, huyện Bắc Quang đã chủ động tuyên truyền, xây dựng kế hoạch và triển khai hiệu quả giúp hàng chục hộ dân xóa nghèo và vươn lên khá giả.
  • Sắc xanh xứ đạo xã Phú Sơn
    Bà con giáo xứ tại xã Phú Sơn, thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) luôn nêu cao phương châm sống “tốt đời đẹp đạo”, tự giác nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh đường làng, ngõ xóm.
  • Theo chân cán bộ kiểm lâm “cắm bản”
    (TN&MT) - Dọc theo những con đường đến với xã vùng biên Phiêng Pằn của huyện Mai Sơn (Sơn La), trên những quả đồi bạc màu, hoang hóa ngày nào, đang xanh lên màu xanh của những cánh rừng. Trong thành công ấy, có bóng dáng, sự nỗ lực quên mình của người kiểm lâm viên địa bàn ngày ngày “bám đất, bám rừng”.
  • Cây dược liệu- Cây xóa nghèo bền vững ở các huyện miền Núi
    Cùng với chính sách xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ, trong những năm gần đây, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa đã đưa ra nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo cho bà con các huyện miền Núi. Trong những chương trình đó thì phát triển nguồn lực tại chỗ là một trong những thế mạnh của người dân như: Phát triển và bảo vệ rừng, trồng cây lâm nghiệp, nông nghiệp, trồng dược liệu… Nhờ đó, người dân vùng sâu, vùng xa Xứ Thanh đã thoát nghèo bền vững.
  • Lễ cầu mưa của dân tộc Hà Nhì
    (TN&MT) - Hàng năm từ 15/5 - 15/7 (âm lịch) người Hà Nhì ở Mường Nhé (Điện Biên) lại chuẩn bị cho Tết mùa mưa (Dế khù chà – theo tiếng Hà Nhì). Đây là dịp để người Hà Nhì cầu mong cho mưa thuận gió hòa, vụ mùa tốt tươi, con cháu họ được sum vầy hạnh phúc. Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng tâm linh thì đó còn là thời điểm họ cảm tạ thần mưa đã dâng nước suối đủ tưới mát cây cối, ruộng đồng, không làm lũ ống, lũ quét... Cảm tạ đất trời đã che chở họ trong cả một năm qua.
  • Người Mạ giữ rừng vì giá trị truyền thống
    (TN&MT) - Nghề giữ rừng tại Vườn Quốc gia Tà Đùng (xã Đắk Som, huyện Đắk G’long) đã mang lại nguồn thu nhập cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số người Mạ từ khoản kinh phí từ dịch vụ môi trường rừng. Với đại đa số các hộ dân tại đây, giữ rừng không chỉ mang lại thu nhập mà còn là trách nhiệm với tổ tiên và các thế hệ mai sau bởi nghề rừng được xem như một nghề truyền thống.
  • Đồng bào Cơ Tu giữ rừng
    (TN&MT) - Ngàn đời nay, đồng bào Cơ Tu ở huyện Tây Giang (Quảng Nam) xem rừng như người Mẹ vĩ đại che chở mang lại sự sống cho dân làng. Chính từ sự ngưỡng vọng, tôn vinh, trân trọng ấy nên người dân Tây Giang luôn yêu quý, bảo vệ rừng.
  • Chính sách cấp nước sạch cho bà con dân tộc thiểu số
    (TN&MT) - Hiện nay, nhiều thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, điều kiện cơ sở hạ tầng còn rất khó khăn và thiếu thốn, đặc biệt là thiếu nguồn nước sạch cho sinh hoạt của người dân. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã đưa vấn đề hỗ trợ nước sinh hoạt bao gồm hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán và hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung là một trong những trọng điểm.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO