Chính sách mới thúc đẩy đường sắt đô thị phát triển
(TN&MT) - Hệ thống đường sắt đô thị của Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đang đứng trước những thách thức lớn, cần có các điều kiện đặc biệt để hoàn thành mục tiêu đề ra. Đặc biệt, nguồn lực cơ chế chính sách giữ vai trò khởi xướng và căn bản nhất đối với phát triển mạng lưới đường sắt đô thị.
Tại kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV dự kiến khai mạc ngày 12/2 và bế mạc vào ngày 18/2/2025, Quốc hội sẽ xem xét Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển hệ thống đường sắt đô thị (ĐSĐT) tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông Nguyễn Cao Minh - Trưởng ban Ban Quản lý Đường sắt đô thị Hà Nội cho biết, Dự thảo Nghị quyết đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc phát triển hệ thống ĐSĐT, hướng tới mục tiêu huy động tối đa mọi nguồn lực hợp pháp, rút ngắn thời gian chuẩn bị và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án ĐSĐT.
Các cơ chế chính sách đặc thù sẽ tối ưu hóa khai thác quỹ đất, đồng thời trao quyền tự chủ mạnh mẽ hơn cho Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, giúp hai đô thị linh hoạt triển khai các dự án theo nhu cầu thực tiễn phát triển, đảm bảo hiệu quả đầu tư.
Đây cũng là bước cụ thể hóa Kết luận số 49-KL/TW ngày 28/02/2023 của Bộ Chính trị về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và kết luận của Bộ Chính trị tại văn bản số 12766-CV/VPTW ngày 27/12/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng.
![2.jpeg](https://btnmt.1cdn.vn/2025/02/10/2.jpeg)
Dự thảo Nghị quyết quy phạm hóa 06 nhóm cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt với mục tiêu cụ thể như sau:
Nhóm chính sách 1 về huy động nguồn vốn: Tập trung huy động nguồn vốn để đầu tư hệ thống mạng lưới ĐSĐT. Linh hoạt trong công tác bố trí vốn từ ngân sách Trung ương, địa phương, vốn ODA, vốn vay ưu đãi, bảo đảm đáp ứng tiến độ thực hiện dự án, thực hiện trước một số nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư.
Nhóm chính sách 2 về trình tự, thủ tục thực hiện đầu tư: Rút ngắn tiến độ triển khai dự án từ giai đoạn chuẩn bị dự án; phân cấp, phân quyền trong công tác thẩm định và phê duyệt dự án; tháo gỡ các vướng mắc về định mức, đơn giá xây dựng; rút ngắn thời gian tổ chức lựa chọn nhà thầu; tạo cơ chế sinh hoạt về nguồn vốn thanh toán.
Nhóm chính sách 3 về phát triển mô hình TOD: Áp dụng giải pháp quy hoạch để phát triển đô thị gắn kết với giao thông ĐSĐT, khai thác hiệu quả quỹ đất xung quanh các ga, nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển ĐSĐT.
Nhóm chính sách 4 về phát triển công nghiệp đường sắt, chuyển giao công nghệ và đào tạo: Quy định các nội dung đặc thù về lựa chọn áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn cho các tuyến đường sắt đô thị; phát triển khoa học, công nghệ và đào tạo phát triển nguồn nhân lực; phát triển công nghiệp và chuyển giao công nghệ.
Nhóm chính sách 5 về vật liệu xây dựng và bãi đổ thải: Giảm trình tự, thủ tục, thực hiện phân cấp, bảo đảm cung cấp vật liệu xây dựng, bãi đổ thải đủ nhu cầu, kịp thời để phục vụ dự án ĐSĐT, dự án đường sắt đô thị theo mô hình TOD.
Nhóm chính sách 6 về các chính sách áp dụng riêng cho thành phố Hồ Chí Minh: Quy định các nội dung tương tự các quy định tại Luật Thủ đô cho thành phố Hồ Chí Minh về các khoản thu trong khu vực TOD; các hình thức vay và tổng mức dư nợ vay; và áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn; lựa chọn nhà đầu tư dự án TOD; phân cấp, phân quyền thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, nhằm tạo cơ chế, chính sách tương đồng giữa thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh về ưu tiên cho đường sắt đô thị.
Các nhóm chính sách đã được đề cập trong Đề án phát triển hệ thống mạng lưới đường sắt đô thị tại TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, kế thừa các chính sách trong Luật Thủ đô, các chính sách tại Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.
Các chính sách trên đã được thực hiện báo cáo đánh giá tác động đầy đủ, xác định lợi ích đem lại.
Dự kiến nếu nghị quyết được ban hành, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh kỳ vọng sẽ từng bước hiện thực hóa mục tiêu phát triển giao thông xanh, bền vững, giảm ùn tắc, cải thiện chất lượng sống cho người dân.