Xã hội

Kiếm củi chờ Xuân

Nhà thơ Hoàng Thị Hạnh 29/01/2025 - 22:05

(TN&MT) - Không phải bây giờ tôi mới nhớ về làng Ao Bon của mình mỗi khi Tết đến mà đã lâu rồi, bao nỗi nhớ cứ đi về mỗi khi trong tiềm thức cảm nhận mùa xuân sắp sang.

Nhớ dáng mẹ tất bật lo toan cho cái Tết của cả nhà khi bố vẫn còn đi công tác chưa về. Nào là lo gạo nếp, đỗ xanh, lá bánh các loại, đụng lợn, dưa hành, rau mùi, gấc đỏ… lại còn quần áo Tết cho chúng tôi cho bằng chị bằng em trong làng. Có một thứ phải lo trước ít nhất là ba tháng, đó là củi Tết. Bây giờ nấu cơm bằng điện, bằng ga, bằng hơi và bằng nhiều phương pháp hiện đại chả có gì phải nghĩ nhiều; nhưng hơn 40 năm trước củi là thứ duy nhất để đun nấu thức ăn và sưởi ấm ở vùng quê tôi. Vì thế củi đun ngày Tết trở thành một thứ không thể thiếu, rất quan trọng. Củi trở thành một dạng văn hóa đặc biệt trong ứng xử của người Tày quê tôi với rừng và cuộc sống thường ngày, nhất là Tết.

1.-bep-nguoi-tay-ngay-tet.png
Bếp người Tày ngày Tết

Câu chuyện bắt đầu từ cách gọi tên về việc đem củi từ rừng về nhà. Người làng tôi rủ nhau lên rừng lấy củi. Khi nguồn củi còn dồi dào thì việc đi lấy củi trở thành một cụm từ quen thuộc và lột tả đúng bản chất. Đi rừng lấy củi về nhà sử dụng thường ngày có khi chỉ có một mình hay vài người bạn; nhưng đi lấy củi Tết thì thường cả làng rủ nhau cùng đi, đông vui, nhiều đợt và đầy trách nhiệm với rừng. Đi lấy củi vào ngày nắng, tranh thủ sau chiều cấy mải hay sau khi tha trâu vừa xong đám ruộng. Lấy củi để đốt những ngày Tết trở thành “sứ mệnh” của những người khỏe mạnh trong nhà. Có đống củi tích trữ là Tết vui chơi, thăm hỏi mẹ cha, ông bà, người thân không phải lo lắng lên rừng. Có đống củi dành cho Tết là không lo trời mưa hay nắng, cả nhà yên vui. Sau này cây trên rừng khan hiếm dần, người đông lên theo cơ học, cụm từ “đi lấy củi” trở thành “kiếm củi”. Tuyệt nhiên người làng tôi không nói là đi chặt củi. Chả ai đốt cây tươi. Không ai tự dưng vào rừng chặt cây để khô đem về đốt.

aaaaaa.jpg
Lấy củi

Nguồn củi được lấy về nhà từ trên rừng là những cây đã khô, ở ven các nương lúa, nương ngô hay những cây chết do sàng lọc tự nhiên. Củi còn được cung cấp từ việc phát nương trồng lương thực. Việc phát nương được thực hiện theo qui ước không thành văn truyền lại từ đời này sang đời khác. Họ chỉ được chọn nơi phát nương sản xuất lương thực phụ trợ cho trồng lúa nước ở nơi ít ảnh hưởng nguồn nước, thường là những đồi thấp, có nhiều cây nứa và cây thảo mộc, diện tích vừa đủ cho nhu cầu của gia đình, không phát vào rừng già. Sau khi phát nương, đốt nương, những cây củi được dọn ra ven nương cho mọi người lấy củi.

Củi có nhiều loại. Có thể phân ra cơ bản là củi gộc, củi con và đóm. Trong đóm có đóm nứa, đóm giang, đóm vầu tre. Củi gộc chính là loại cây gỗ khô to, ở trong rừng sâu, ở trên các quả núi lớn. Chúng tôi thường lên Khau Nu (núi có hình con chuột), Khau Gia (núi Bà) để lựa chọn củi gộc. Đó là những cây thân thẳng, thớ gỗ dài, chắc, dễ bổ để khi đốt đượm than và giữ lửa từ ngày này sang ngày khác. Cây củi gộc tốt nhất là cây ba soi, cây phổi bò, cây sồi, cây sẻn, cây trám đen. Củi sẻn, củi trám đốt cùng các loại khác trong nhà thơm như hương trầm lan tỏa theo khói bay trong cả nhà, đến cả khu vườn nhỏ ngoài ruộng lúa.

Thường thì đàn ông, con trai tìm củi gộc và khênh vác ra cửa rừng rồi dùng trâu kéo về nhà. Bọn con gái hay các mẹ các bà thì lấy củi con, lấy đóm giang đóm nứa. Lấy củi con cũng chọn rất kỹ. Phải lựa những cành củi chắc, tương đối thẳng, các cành không nhỏ hơn cổ tay, róc hết mắt, dài trên dưới khoảng 2m. Củi con nhặt tìm dưới những gốc cây to. Cành già theo gió rơi xuống về đêm. Hình như đó là quy luật riêng của rừng. Chúng tôi ít gặp và càng ít nghe các cụ kể cành khô rơi vào ban ngày, trừ khi bão giông. Làng tôi chưa có ai bị cành khô rơi vào người cho đến tận bây giờ. Đóm giang là cây giang đã khô, tự chết. Dóng giang dài, lốm đốm thân vàng là những nốt đen trông như một bức họa nhiều sóng. Đóm nứa là những cây tự khô trong búi hay có những cây do phát đường trước đó mà có. Tre nứa ở Khau Nu, Khau Gia sau này cũng khuy cả triền nhìn thương như là một nốt tạ từ sau 100 năm sinh ra và tạo thành rừng. Nhưng rồi cây mới lại mọc xanh tươi... luân hồi như kiếp người vậy.

hoa-dao-chung-cho-ca-2-ben-deu-duoc.png

Ngày ấy, rừng thân thương với cả làng, nhất là lũ trẻ. Được đi vào rừng lấy củi Tết với bố mẹ anh chị, với người làng là hạnh phúc lắm. Bởi được ngắm nhìn những tán lá xanh, chở che như mái nhà. Cả một khu rừng đầy vơi tiếng hót của các loài chim. Thi thoảng may mắn còn được ngắm nhìn từng đàn khỉ đu mình trèo leo trên các cây cao. Trên những cây dẻ quả còn sót lại, lũ khỉ thấy người thì hú hót lên và nhặt quả ném lại rào rào.

Còn nắng nữa. Nắng trong rừng già mới tuyệt làm sao! Nắng thả từng chùm tia lia xuống đất, qua kẽ lá, in trên thảm lá mục, tạo thành những bông hoa nhiều dáng vẻ. Ai đã đi trong rừng già ken đầy cây, dây và lá xanh, sẽ hiểu cảm giác nghe tiếng mưa rơi ào ào mà chỉ thấy lác đác vài hạt rơi xuống khoảng trống, thấy nước chảy từ ngọn xuống thân cây thấm vào tầng lá mục. Mưa xuống nắng lên, ngắm hoa nắng trải dưới những khoảng trống của cây rừng cùng với hoang hoải mùi hương…mới thấy rừng đẹp và thân thiện đến nhường nào. Rừng cuối năm, cây cối như trầm tư hơn, nhưng sự hào phóng thì vẫn thế, rừng sẵn sàng dâng hiến nhiều sản vật cho con người.

Lên rừng lấy củi, bọn con gái chúng tôi bao giờ cũng đeo cái ớp* ở sau lưng và cái vỏ dao** ở bên sườn trái. Ớp để đựng những sản vật của rừng khi gặp như quả sa nhân, quả thiếu nọt, quả ngõa trái mùa, bóc những đọt măng riềng hay đọt lau non; vỏ dao để dắt con dao bên mình vì không phải lúc nào cũng cầm dao, có lúc phải dùng hai tay để đu dây hay trèo leo trên những tảng đá. Mải mê, có hôm mặt trời sắp gác trên đỉnh núi chúng tôi mới ra đến cửa rừng. Đứa thì nhận chạy xuống cuối dốc cảnh giới cho người qua tránh củi lao; đứa thì dòng dây thả từng cây củi gộc, từng bó đóm giang, đóm nứa xuống dốc. Tiếng hò reo, sắp xếp trước sau rộn rã cả hoàng hôn.

Những cây củi gộc được các anh trai làng bập khấc hình sẽo trâu hay dùng rìu chặt vòng tròn quanh gốc, rồi chẻ những cây giang bánh tẻ ngay tại rừng, thành lạt, vặn thành chạc buộc quanh, móc vào bè cây để trâu kéo thay người vác. Các công đoạn nhịp nhàng dù không mấy nhẹ nhàng nhưng ai cũng phấn khởi ra mặt. Tiếng mõ trâu lốc cốc, tiếng vỏ dao lách cách bên mình, tiếng lao xao nói cười xuôi dần từ núi về làng. Những mái nhà sàn đã lên đèn. Những nồi cơm còn độn sắn, với rau rừng, cá ruộng nấu măng chua đang chờ chúng tôi. Ôi hạnh phúc thật ngọt ngào. Cứ nghĩ đến những ngày Tết quây quần, cả căn nhà bừng sáng từ củi lửa và các ngọn đèn dầu (hồi ấy chưa có điện thắp sáng), ấm áp, tí tách củi lửa nồng nàn đã thấy hạnh phúc mà quên hết mệt nhọc.

Nếu chỉ có củi gộc thì chưa thể thành bếp lửa. Sẽ là thiếu sót nếu không nói đến việc đàn ông lấy củi gộc thì đàn bà, phụ nữ lấy củi con, lấy đóm từ rừng. Thường là lấy củi con ở đồi thấp hơn, nhưng muốn lấy củi con có chất lượng, mà là củi Tết thì phải đi cùng đàn ông lấy ở rừng già. Khác với củi gộc sau khi lao dốc cho trâu kéo về, củi con, đóm là phải bó để vác trên vai về tận nhà. Trước hết là phải đi chọn lựa củi. Chọn những cành khô, chắc và tương đối thẳng, đều cây; sau đó xếp vào từng bó phù hợp với sức vác của từng người. Người yếu hay trẻ em thì bó vác nhỏ, người có sức khỏe tốt thì bó vác to.

screenshot_1736176266.png

Xếp củi và kết lại thành bó là cả một nghệ thuật. Gốc xếp vào gốc, ngọn xếp vào ngọn mà bó củi cân bằng đầu đuôi. Tuyệt nhiên không được bó gốc và ngọn vào với nhau. Việc đun củi vào bếp cũng thế. Gốc cây phải cho vào đốt trước, cháy dần đến ngọn. Nếu ai cho ngọn vào trước sẽ bị nhìn nhận như người không biết điều, kẻ ngỗ ngược, bị xa lánh hoặc chê cười. Ngoài việc trông cho đẹp mắt còn là lời dặn dò của người xưa, sống sao cho có trên có dưới thuận hòa:

“ Riêng bó củi xếp gốc vào một phía

Đừng bao giờ lộn gốc ngọn vào nhau

Thứ tự trước sau nhịn nhường trên dưới

Bài học làm người mẹ dạy vẫn còn đây”

(Nhớ Mẹ)

Bó củi, đóm đẹp được lấy làm một trong những thước đo kén vợ cho các chàng trai của các gia đình trong vùng. Mẹ tôi sợ tôi ế nên từ khi tôi còn bé đã công phu dạy tôi bí quyết để có bó củi đẹp.

Đi lấy củi Tết sẽ nhộn nhịp lên vài hôm gần giáp Tết (khoảng 17, 18 tháng Chạp). Những cây củi gộc, những vác củi con, vác đóm này chỉ là cơ số lớn được bổ sung vào cả một đống củi đóm đã được mọi nhà cần mẫn gom nhặt từ trước đó vài tháng. Nhà ai dưới gầm sàn hay bên chái nhà cũng có đống củi chờ Tết dù to hay nhỏ. Thóc trong bồ còn ít nhìn thấy, nhưng đống củi Tết thì luôn hiện hữu với những lời trầm trồ khác nhau. Vì vậy củi Tết không chỉ là vật chất mà còn là niềm vui, sự hãnh diện mang yếu tố tinh thần trong mỗi nhà.

Chúng tôi không chỉ được bố mẹ dắt vào rừng lấy củi Tết, mà còn được dạy chẻ lạt, gom củi, bó củi, chọn dóng giang làm lạt gói bánh... và biết bao tri thức về rừng. Nếu lỡ tay phạt một tàu lá dong hay bập linh tinh vào những cây củi mà mình không lựa chọn là bị mắng. Mẹ bảo, để người đi sau họ chọn. Vì cách dạy dỗ bảo ban ấy nên có những gia đình dù vào rừng muộn vẫn lấy được củi, lá dong, lấy được giang chẻ lạt, và các loại cần thiết cho cuộc sống. Người đi trước lấy trước, nhưng không hủy hoại xung quanh bất cứ thứ gì của rừng. Họ coi rừng là của nhà mình nên thân thiện, bảo vệ và biết ơn.

Sẽ là khiếm khuyết nếu không nói với các bạn về việc đun củi lửa ngày Tết như thế nào. Gian bếp nhà sàn người Tày thường nằm ở giữa ngôi nhà 3 gian 2 chái. Đầu tiên là cho hai cây củi gộc từ hai bên (ngang với nóc nhà từ cửa vào và từ bên trong ra). Cùng với hai cây củi gộc như là trụ cột, điểm nhấn của bếp là củi con được đun vào để bên cạnh hai cây củi gộc. Chưa đủ, nếu không có đóm nứa hay đóm giang cho vào đốt làm nòm thì còn lâu củi con và củi to mới cháy lên được. Đóm cháy làm nóng củi con. Củi con cháy cùng đóm làm nóng và bén củi gộc cháy. Cả ba loại hợp lại tạo nên bếp lửa hồng rừng rực. Than hồng cời ra nướng thịt cá xèo xèo thơm lựng. Chõ xôi tỏa mùi nếp nương lan cùng hơi ấm khắp nhà, có khi còn lan cả sang hàng xóm.

Trên dựa (sàn treo cách bếp 80cm) là các loại thịt được hun khói với gia vị thơm như hạt dổi, hạt mắc khén hay tiêu rừng. Sau bữa tất niên quây quần bên bếp lửa, nồi bánh chưng được bắc lên. Củi được thêm vào, nước được tiếp vào nồi. Những câu chuyện râm ran bên bếp lửa bập bùng. Tiếng pháo Giao thừa giòn tan lan lan trong thung lũng…

hoa-dao.png

Trang nghiêm bố cúng Giao thừa. Lũ trẻ chìm vào giấc ngủ. Chỉ còn mẹ sau bếp lửa gói thêm bánh tẻ, bánh dợm, bánh rán và trở những gắp chả nướng vàng ruộm cho bữa cúng tổ tiên sáng Mùng 1 Tết. Củi gộc được lựa kỹ, khô cong, than đượm, đủ cho ba ngày Tết không lúc nào ngôi nhà không có lửa ấm. Khách đến nhà chúc Tết cũng quây quanh bếp lửa. Những mâm cỗ được bưng ra, trẻ thì ngồi xa bếp, già thì ngồi ngay cửa bếp hay sau bếp uống rượu và chúc nhau bao điều tốt đẹp. Bếp than hoa mà nướng bánh chưng ai ăn một lần chắc nhớ dài lâu. Than hoa không làm nhọ tay hay đồ ăn. Hong nướng than ngang với mặt bếp, khác với nướng trên than có khói. Cái mùi thơm đậm đà, ngọt ngào của thịt cá nướng với hạt mắc khén hay hạt dổi đã níu chân không ít người đi rồi trở lại Ao Bon, Chấn Thịnh, Yên Bái của tôi.

Lấy củi Tết còn mãi trong ký ức tuổi thơ tôi, và với lớp người quê núi những năm bảy mươi, tám mươi của thế kỷ trước. Những bài học coi rừng là nhà, là nơi cung cấp sản vật cho đời sống và lòng biết ơn còn mãi với rừng. Những lời mẹ dạy biết sống trước sau, trên dưới vẹn toàn hiếu nghĩa còn đây nối tiếp cho đời sau. Chắc ở miền mây trắng mẹ vui lắm khi biết bây giờ trời mưa không phải lo nhập nhèm khói bếp khi củi ướt, Tết không lo phải lo kiếm củi để sưởi ấm, để nấu bánh chưng, để làm sáng căn nhà nhỏ như ngày xưa. Mẹ ơi, dù cuộc sống có dâu bể đổi thay, nhưng tình mẹ và ký ức kiếm củi ngày Xuân vẫn đong đầy trong kiếp nhân sinh, không bao giờ vơi nhạt.

Yên Bái ngày cuối năm

*Ớp: Một loại đồ đựng các loại rau quả của người Tày.

** Vỏ dao là đồ làm bằng tre để đeo con dao cạnh hông.

Nhà thơ Hoàng Thị Hạnh