Tăng thu nhập từ rừng, người dân giảm vi phạm pháp luật
(TN&MT) - Ngày 22/11, tại Sóc Trăng đã diễn ra lễ tổng kết dự án “Tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu (BĐKH) của cộng đồng ven biển thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long – giai đoạn 1.
Thông qua dự án, lần đầu tiên, người dân tự biết cách đo mức độ hấp thụ các-bon từ các loài cây khác nhau trong rừng ngập mặn. Số vụ vi phạm pháp luật về lâm nghiệp giảm giảm hơn 85%, trong khi thu nhập bình quân của các hộ gia đình dựa vào sinh kế liên quan đến rừng ngập mặn tăng rõ rệt.
Sóc Trăng có 72 km đường bờ biển tạo điều kiện cho rừng ngập mặn phát triển. Tính đến năm 2023, rừng phòng hộ ven biển của tỉnh có diện tích là 6.814 ha, chủ yếu là rừng ngập mặn phân bố chính ở 03 địa phương: thị xã Vĩnh Châu (4.319 ha), huyện Cù Lao Dung (1.784 ha) và huyện Trần Đề (684 ha). Đây là lá chắn quan trọng bảo vệ đời sống và sản xuất của người dân khu vực ven biển, có ý nghĩa to lớn trong việc ứng phó biến đổi khí hậu.
Theo ông Trần Văn Khiêm - Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Sóc Trăng, Dự án “Tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu của cộng đồng ven biển thuộc Đồng bằng sông Cửu Long – giai đoạn 1” do UBND tỉnh giao cho UBND thị xã Vĩnh Châu chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xem xét, thực hiện theo đề xuất của Tổ chức ActionAid Quốc tế tại Việt Nam (ActionAid-AFV) và Quỹ hỗ trợ chương trình, dự án an sinh xã hội Việt Nam (AFV). Mục tiêu góp phần bảo vệ và tăng cường khả năng hấp thụ khí CO2 của rừng phòng hộ tại 3 xã trên địa bàn thị xã Vĩnh Châu và thiện sinh kế của cộng đồng sinh sống trong các vùng đệm.
Sau gần 3 năm triển khai (từ tháng 6/2022-tháng 11/2024), kết quả đều vượt mục tiêu đề ra với những số liệu hết sức cụ thể. Đã có 105 ha rừng ngập mặn được trồng và cải tạo mới với tỷ lệ sống của cây trồng mới rất cao - đạt 95%; tỷ lệ hấp thu các-bon của cây rừng tăng 22,8%; 1.400 hộ gia đình đã được tiếp cận rừng ngập mặn hợp pháp và ngắn hạn 1 năm để bảo vệ rừng và phát triển sinh kế dưới rừng, nhờ đó, thu nhập trung bình tăng 40%; số vụ vi phạm pháp luật về lâm nghiệp giảm 85,7% .
“Kết quả Dự án đã góp phần thực hiện các mục tiêu chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trên lĩnh vực lâm nghiệp giai đoạn 2021 - 2030 và tầm nhìn đến 2050; mục tiêu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, nuôi trồng thủy sản vùng ven biển, hỗ trợ cộng đồng thích ứng với BĐKH, tăng giá trị sản xuất, cải thiện thu nhập dưới tán rừng cho người dân ven biển. Từ đó, góp phần thực hiện hiệu quả các chỉ tiêu về tăng trưởng xanh, giảm phát thải khí nhà kính thông qua phát triển rừng và khôi phục và bảo vệ hệ sinh thái rừng ven biển; góp phần tăng độ che phủ rừng vào năm 2025 và 2030 đạt trên 3%” – ông Khiêm nhấn mạnh.
Ở cấp quốc gia, dự án đã phối hợp với Viện sinh thái rừng và Môi trường, Trường Đại học Lâm nghiệp trong việc xây dựng phương pháp đo đếm carbon rừng ngập mặn. Trong đó, cộng đồng địa phương trực tiếp tham gia giám sát mức độ phát triển của cây rừng và cập nhật dữ liệu đầu vào cho quá trình tính toán hấp thụ các-bon. Theo ông Tạ Việt Anh - Chủ tịch Hội đồng Quản lý Quỹ AFV, hoạt động của dự án đã biến một công việc tưởng chừng khó khăn chỉ có các nhà khoa học mới làm được thành công việc mà mỗi người dân đều có thể làm tốt và làm chủ được quá trình này.
Từ nghiên cứu của dự án, Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) đã xây dựng và ban hành hướng dẫn kỹ thuật điều tra, đo đếm carbon rừng ngập mặn theo Quyết định số 316/QĐ-LN-SXLN ngày 29/10/2024. Đây là hướng dẫn chuyên môn đầu tiên về lĩnh vực này được ban hành và áp dụng trên phạm vi toàn quốc.
Thành quả dự án bắt nguồn từ việc cộng đồng địa phương đã được nâng cao nhận thức cũng như năng lực trong công tác trồng rừng, bảo vệ rừng một cách bài bản và có trách nhiệm. Chính cộng đồng cũng hưởng lợi từ các mô hình sinh kế thành công như nuôi ong, buôn bán đặc sản từ sản vật của rừng như mắm tép, muối ba khía, khô cá, khô tôm… Theo chị Kim Thị Điệp, người Khmer, thành viên Tổ bảo vệ rừng ấp Trà Sết, xã Vĩnh Hải, TX. Vĩnh Châu, Sóc Trăng: Ban đầu, mình tham gia trồng rừng ngập mặn, sau lại đi đo các-bon rừng. Cán bộ hướng dẫn rất tận tình và mình cũng hiểu, phải đo được các-bon thì sau này mới bán được tín chỉ carbon rừng ra thế giới. Vậy là lại có tiền để quay lại bảo vệ rừng”.
Phó Giám đốc Sở Trần Văn Khiêm nhận định, kết quả bước đầu, là các mô hình mẫu để nhân rộng ra các xã khác trên địa bàn thị xã Vĩnh Châu, đồng thời cũng là điểm để các dự án khác tham quan, học tập. Để bảo vệ và phát huy hiệu quả diện tích rừng hiện có, gắn bảo vệ rừng với phát triển bền vững và tối đa hóa tiềm năng lao động địa phương, giai đoạn tới, ông Khiêm đề nghị Ban quản lý dự án tiếp tục quan tâm đến tạo các mô hình sinh kế cho người dân tham gia bảo vệ, phát triển rừng.