Tạo điều kiện để từng bước phát triển các đô thị theo hướng đô thị xanh, thông minh
Bộ Xây dựng đang lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Luật Quản lý phát triển đô thị nhằm tạo điều kiện, tiền đề để từng bước phát triển các đô thị theo hướng đô thị xanh, thông minh.
Bộ Xây dựng cho biết, những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đã tác động sâu sắc để công tác phát triển đô thị của đất nước ta trong thời gian vừa qua đạt được những dấu mốc phát triển quan trọng.
Hệ thống đô thị cả nước tăng nhanh về số lượng, hình thành các vùng đô thị hóa cùng với các chuỗi, chùm đô thị phân bố rộng khắp các vùng, miền. Nếu như cuối năm 1998, cả nước mới chỉ có 633 đô thị với dân số đô thị chỉ chiếm 24% dân số cả nước, thì sau 10 năm số lượng đô thị đã tăng lên 740 đô thị. Đến tháng 12/2023, cả nước có 902 đô thị với tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 42,7%. Tổng số các đô thị từ loại IV trở lên đạt gần 200 đô thị so với 86 đô thị vào năm 1998. Chất lượng sống tại đô thị từng bước được nâng cao.
Phát triển đô thị tạo lập nền tảng cơ sở vật chất đồng bộ, hiện đại cho các đô thị, tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới mô hình tăng trưởng và gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, góp phần bảo đảm quốc phòng an ninh.
Tồn tại, hạn chế của thực trạng phát triển đô thị
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực trạng phát triển đô thị Việt Nam đang có những tồn tại, hạn chế lớn tác động đến sự phát triển bền vững, cần được tập trung khắc phục:
Sự phân bố đô thị trong hệ thống đô thị Việt Nam còn thiếu tính liên kết, chưa phân cấp rõ nét, chưa phát huy được kết nối vùng trong hệ thống đô thị, việc áp dụng các mô hình phát triển mới, bền vững còn thiếu chiều sâu. Các yếu tố vùng miền, đặc thù, đặc trưng của các đô thị chưa phát huy, tạo nên lợi thế so sánh cho các đô thị trong việc tổ chức phát triển đô thị theo quy hoạch.
Việc tổ chức xây dựng, phát triển đô thị theo quy hoạch còn yếu, không gắn với nguồn lực, còn dàn trải. Phát triển phình rộng đô thị còn phổ biến. Các khu vực dân cư cũ trong đô thị còn chậm được cải tạo, chỉnh trang, tái phát triển, nhất là các khu vực có hạ tầng chưa đạt tiêu chuẩn, khu nhà ở lụp xụp, khu dân cư nghèo đô thị, các khu vực không phù hợp chức năng đô thị. Chưa phát huy được nguồn lực, sự tham gia của cộng đồng và cư dân đô thị.
Hạ tầng các trung tâm đô thị lớn bị quá tải, chưa thích ứng với biến đổi khí hậu, ứng phó với dịch bệnh quy mô lớn; tính liên kết còn yếu. Tại các đô thị lớn, một số chỉ tiêu hạ tầng kỹ thuật (giao thông đô thị, cây xanh, thoát nước, xử lý nước thải) và hạ tầng xã hội đô thị chưa đạt yêu cầu làm giảm chất lượng đô thị.
Khai thác không gian ngầm còn rất hạn chế, chưa phát huy và khai thác có hiệu quả việc sử dụng không gian ngầm; mới chỉ được chú ý phát triển trong những năm gần đây, quy mô và số lượng còn hạn chế, mang tính cục bộ, chỉ khai thác cho một mục đích riêng, chưa có sự liên kết tổng thể cho cả khu vực hay một đô thị, chưa được quản lý và khai thác hiệu quả, có hệ thống trong đô thị.
Năng lực quản lý và quản trị đô thị còn yếu, chậm được đổi mới, hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý. Chưa đề cao vai trò, trách nhiệm quản lý của chính quyền địa phương gắn với nâng cao năng lực, trình độ quản lý và phát huy sự tham gia, thực hiện của cộng đồng dân cư trong quản lý phát triển đô thị.
Hình thành và phát triển đô thị đáng sống đối với cư dân và hấp dẫn đối với nhà đầu tư
Bộ Xây dựng đề xuất xây dựng Luật Quản lý phát triển đô thị trên quan điểm thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng và phát triển bền vững đô thị Việt Nam và nhiệm vụ hoàn thiện thể chế, xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ và hiệu lực của hệ thống pháp luật. Kế thừa, phát huy và luật hóa các quy định đã được chứng minh là phù hợp, có hiệu quả trong thực tiễn. Tham khảo có chọn lọc quy định pháp luật của một số quốc gia và tổ chức quốc tế trên thế giới phù hợp với thực tiễn tình hình phát triển của Việt Nam và xu thế hội nhập quốc tế.
Phát triển hệ thống đô thị bền vững theo mạng lưới, phân bổ hợp lý, phù hợp với từng vùng, miền, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền; đô thị hình thành, xây dựng mới, vận hành, phát triển, cải tạo chỉnh trang, tái thiết có trật tự, theo quy hoạch và có kế hoạch, trong đó quy hoạch đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị phải đi trước một bước; bảo vệ, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên tự nhiên, nhất là tài nguyên đất đai.
Tạo điều kiện, tiền đề để từng bước phát triển các đô thị theo hướng đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai và dịch bệnh; hình thành và phát triển đô thị đáng sống đối với cư dân và hấp dẫn đối với nhà đầu tư, có vai trò, vị thế động lực dẫn dắt phát triển kinh tế - xã hội.
Đề cao vai trò trách nhiệm chính quyền các đô thị, cộng đồng dân cư và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia quản lý đô thị, thực hiện phân cấp, phân quyền và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về phát triển đô thị.
Bố cục dự thảo Luật Quản lý phát triển đô thị
Dự thảo Luật Quản lý phát triển đô thị có 07 Chương với 82 Điều, cụ thể như sau:
Chương I. Quy định chung (từ Điều 01 đến Điều 08).
Chương II. Hệ thống đô thị, đánh giá, phân loại đô thị (từ Điều 09 đến Điều 21).
Mục 1. Phát triển hệ thống đô thị.
Mục 2. Đánh giá, phân loại đô thị.
Chương III. Chương trình phát triển đô thị, hệ thống đô thị và quản lý các khu vực phát triển đô thị (từ Điều 22 đến Điều 41).
Mục 1. Chương trình phát triển đô thị.
Mục 2. Quản lý khu vực chỉnh trang, cải tạo, tái phát triển đô thị.
Mục 3. Quản lý khu vực phát triển mới của đô thị.
Chương IV. Quản lý phát triển hạ tầng đô thị (từ Điều 42 đến Điều 64).
Mục 1. Quản phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị.
Mục 2. Quản lý phát triển hạ tầng xã hội đô thị.
Chương V. Quản lý phát triển không gian ngầm đô thị (từ Điều 65 đến Điều 72).
Chương VI. Trách nhiệm quản lý phát triển đô thị (từ Điều 73 đến Điều 79).
Chương VII. Điều khoản thi hành (từ Điều 80 đến Điều 82).