Môi trường

Xác định nguồn thải rác nhựa

Hoài Thu 16/10/2024 - 20:16

(TN&MT) - Ngày 16/10, tại Hà Nội, Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT đã tổ chức Tọa đàm “Quản lý rác thải nhựa ở Việt Nam: Từ mục tiêu chính sách đến hành động thực tiễn”. Đây là hoạt động trong khuôn khổ triển khai hoạt động nghiên cứu về Nguồn phát thải (3SIP2C) do Quỹ Nghiên cứu thách thức toàn cầu (GCRF) của Chính phủ Anh tài trợ và được thực hiện bởi Đại học Heriot Watt, Anh quốc.

img_0483.jpeg
PGS.TS Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT phát biểu khai mạc

Phát biểu khai mạc Tọa đàm, PGS.TS Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT cho biết, nhận thức được vấn đề và tác hại của rác thải nhựa, đặc biệt đối với hệ sinh thái biển và cộng đồng dân cư ven biển, Bộ TN&MT đã phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương cũng như các tổ chức trong nước, tổ chức quốc tế,… xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030 tại Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 4/12/2019.

Kế hoạch đề ra mục tiêu chung trong việc thực hiện có kết quả các sáng kiến và cam kết của Việt Nam với quốc tế về việc giải quyết các vấn đề rác thải nhựa, mà trọng tâm là rác thải nhựa đại dương, đảm bảo ngăn ngừa việc xả rác thải nhựa từ các nguồn thải trên đất liền và các hoạt động trên biển, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực về giảm thiểu rác thải nhựa đại dương.

Bên cạnh đó, Kế hoạch hành động đặt ra mục tiêu xây dựng, thực hiện có hiệu quả Đề án tăng cường quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam; phù hợp với cách tiếp cận theo mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH), góp phần thúc đẩy hoạt động thu hồi, tái chế, tái sử dụng chất thải nhựa ở Việt Nam; nâng cao nhận thức, ứng xử và thói quen sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần, túi ni lông khó phân hủy của cộng đồng và xã hội…

Và để đạt được các mục tiêu của Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030, Việt Nam cần sự nỗ lực, chung tay của các bên liên quan, trong đó có cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức bảo tồn, bảo vệ môi trường và đặc biệt là sự tham gia của các Trường đại học, Viện nghiên cứu trong nước và quốc tế.

“Hiện nay có nhiều dự án về giảm thiểu rác thải nhựa, nhưng theo tôi dự án 3SIP2C là một trong những số ít được thực hiện với sự tham gia của cơ quan nghiên cứu chuyên sâu về kỹ thuật, truyền thông, huy động sự tham gia của cộng đồng, kinh tế và chính sách, quản lý” - PGS. TS Nguyễn Đình Thọ nhấn mạnh.

Qua đó, ông mong muốn các đại biểu trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm, góc nhìn của mình về các vấn đề liên quan đến giảm rác thải nhựa nói chung, rác thải nhựa trên biển nói riêng tại Tọa đàm.

img_6063.jpeg
GS. Michel Kaiser - Đại học Heriot Watt, Vương quốc Anh trình bày nghiên cứu

Tại Tọa đàm, GS. Michel Kaiser - Đại học Heriot Watt, Vương quốc Anh trình bày về nội dung Dự án nghiên cứu “Nguồn phát thải, Nơi tích tụ và các giải pháp giảm thiểu tác động của rác thải nhựa đến cộng đồng ven biển Việt Nam” (3SIP2C). Trong đó, ông đề cập đến mục tiêu Dự án nhằm tìm hiểu nguồn gốc và nơi chứa rác thải nhựa, đánh giá tác động của rác thải nhựa đối với xã hội dân sự và các doanh nghiệp ven biển, sức khỏe và sự an toàn của con người.

GS. Michel Kaiser cho biết, chất thải nhựa, chẳng hạn như túi nilon, chai và bao bì thực phẩm,… được xác định có tác động tiêu cực đến cộng đồng ven biển, đặc biệt là tàu đánh cá, với chi phí hàng năm ước tính là 128-146 triệu đồng cho mỗi tàu (chiếm 15% thu nhập hàng năm).

Qua nghiên cứu, gió mùa và bão biển tác động đến sự phân bố nhựa, mùa khô dẫn đến sự di chuyển nhanh của nhựa về phía nam, gần như toàn bộ bờ biển trong hai tháng. Nồng độ vi nhựa (MIP) trung bình được xác định cao hơn vào mùa khô, trong đó, các loại MIP dạng sợi chiếm ưu thế. Thủy triều ảnh hưởng đến nồng độ ở cửa sông, trong đó polyethylene và nilon là những loại nhựa chiếm ưu thế.

Đồng thời, chất thải nhựa đã tăng lên khi nuôi trồng thủy sản cùng sự phát triển về du lịch, đặc biệt là POPs và kim loại vết (TMs) tích tụ trên vi nhựa ở các khu vực nuôi trồng thủy sản, nhất là vào mùa mưa và gần cửa sông. Các gen kháng kim loại, ARGs và ARB đã được phát hiện khi tiếp xúc với vi nhựa có kháng sinh hoặc TMs, hàu Thái Bình Dương và trai nước ngọt đã phát triển các tác động gây độc gen.

Tuy nhiên, cộng đồng ven biển chưa nhận thức rõ ràng được vấn đề nghiêm trọng của sự ô nhiễm nhựa nên vẫn thiếu trách nhiệm trong thực hiện các phương án để bảo vệ môi trường và giảm thiểu ô nhiễm.

"Việt Nam có thể quản lý rác thải hiệu quả, phát triển mô hình vận chuyển hạt nhựa để hiểu các con đường vận chuyển từ cửa sông dọc theo bờ biển và cách chúng thay đổi theo mùa. Cùng với đó, Chính phủ cần thu hút sự vào cuộc của các doanh nghiệp có liên quan để định lượng quy mô và rủi ro kinh tế của nhựa ở vùng ven biển và đưa ra lệnh cấm nhựa dùng một lần là việc làm cần thiết trong cộng đồng địa phương để thúc đẩy tăng trưởng du lịch bền vững…” - GS. Michel Kaiser chỉ rõ.

img_0462.jpeg
TS. Nguyễn Mỹ Hằng - Cục Biển và Hải đảo Việt Nam trình bày tham luận

TS. Nguyễn Mỹ Hằng - Cục Biển và Hải đảo Việt Nam nhấn mạnh về những nỗ lực giảm thiểu ô nhiễm rác thải nhựa đại dương trong nước thời gian qua. Cụ thể, Việt Nam đã ban hành và triển khai nhiều chính sách pháp luật liên quan đến quản lý ô nhiễm nhựa; thu thập, xây dựng các cơ sở dữ liệu về ô nhiễm rác thải nhựa đại dương; bên cạnh đó, đưa ra nhiều phương án thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải nhựa bao gồm nhựa đại dương, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng, cũng như đẩy mạnh và tăng cường hợp tác quốc tế, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật,…

Ngoài ra, thông qua Dự án do WWF (Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên) tài trợ, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trong việc bảo vệ môi trường, trong đó, có 10 địa phương ký cam kết và ban hành Kế hoạch hành động trở thành Đô thị Giảm nhựa - đến năm 2025 giảm 30% rác thải nhựa thất thoát ra môi trường; 114 trường học xây dựng và triển khai mô hình Trường học giảm nhựa; 812,4 tấn rác thải nhựa được thu gom, ngăn chặn thất thoát ra môi trường (tính đến 30/6/2024); 8003m3 rác thải nhựa được thu gom tại 3 khu bảo tồn biển Phú Quốc, Côn Đảo và Cù Lao Chàm; cùng hơn 11.200 hộ gia đình tại Long An, Phú Quốc, Côn Đảo được tập huấn về phân loại rác thải rắn,…

Đồng thời, có hơn 5 chuỗi siêu thị bán lẻ lớn trên toàn quốc và hơn 185 cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch tại các địa phương đã thực hiện giảm rác nhựa và túi nilon khó phân huỷ. Đây là một trong những kết quả tích cực của Dự án đối với thực tiễn xã hội. Cùng với đó, WWF cũng hỗ trợ xây dựng và triển khai các mô hình dựa vào cộng đồng: Ngư dân mang rác về bờ; Điểm tập kết xanh; Phân loại rác tại nguồn ứng dụng IMO,…

Từ những kết quả trên, TS. Nguyễn Mỹ Hằng đưa ra các kiến nghị để phát huy tính chủ động trong việc giảm thiểu ô nhiễm rác thải nhựa tại Việt Nam, cần thực hiện đánh giá tổng thể về thực trạng ô nhiễm nhựa nói chung và ô nhiễm nhựa đại dương ở Việt Nam, qua việc xác định các vấn đề chính cần giải quyết như điểm nóng ô nhiễm, hoạt động làm sạch, quản lý vòng đời của nhựa.

img_0482.jpeg
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Toạ đàm

Tiếp đó, cần thiết phải nâng cao nhận thức cộng đồng (xây dựng các mô hình đô thị giảm nhựa, đặc biệt là các đô thị sát biển, du lịch biển, trường học không rác thải nhựa); tăng cường hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ, thông qua điều tra khảo sát, quan trắc, giám sát, phát triển nhựa thân thiện với môi trường, nhựa thay thế, tái chế, huy động các nguồn tài chính để thực hiện,…

Tại Toạ đàm, nhiều ý kiến đóng góp từ các đại biểu trong phiên Thảo luận đã được thẳng thắn chia sẻ và trao đổi trong việc giải quyết các thách thức để giảm thiểu rác thải nhựa ở Việt Nam và đạt được các mục tiêu chính sách vào thực tiễn.

Hoài Thu