Tài nguyên nước

Nước ngọt cho ĐBSCL: Cần lời giải cấp thiết

Nguyễn Thủy 19/07/2024 - 16:38

(TN&;MT) - “Giải cơn khát nước ngọt” cho ĐBSCL trong bối cảnh hạn hán và xâm nhập mặn tiếp tục gay gắt là bài toán đặt ra cần lời giải cấp thiết.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang đối mặt với nhiều thách thức về nguồn nước. Tình trạng thay đổi dòng chảy, xói lở bờ sông và bờ biển đã và đang đặt ra vấn đề cấp thiết cho toàn vùng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh kế của hàng triệu người dân trong khu vực. Hàng loạt giải pháp đã được các chuyên gia, nhà quản lý hiến kế nhằm “giải cơn khát nước ngọt” cho ĐBSCL trong bối cảnh hạn hán và xâm nhập mặn tiếp tục gay gắt.

Sử dụng hợp lý nguồn nước

Theo PGS,TS. Lê Anh Tuấn, giảng viên Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên, Trường Đại học Cần Thơ, hiện vùng ĐBSCL đang đối mặt với 7 thách thức về nguồn nước. Đó là: Biến đổi khí hậu, nước biển dâng; đập thủy điện ở thượng nguồn; chuyển nước sông Mê Công; suy giảm môi trường nước; thay đổi sử dụng đất và mâu thuẫn dùng nước; hiệu quả sử dụng nước thấp và khai thác tài nguyên nước quá mức. Đơn cử như tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười - nơi từng được biết đến là vùng trữ nước nhưng nay lượng nước đã suy giảm nghiêm trọng.

1.-han-han-xam-nhap-man-o-dbscl-ngay-cang-gay-gat.png
Hạn hán xâm nhập mặn ở ĐBSCL ngày càng gay gắt

Để đảm bảo an ninh nguồn nước, PGS,TS. Lê Anh Tuấn cho rằng: Giải pháp hiện nay là phải phục hồi khả năng hấp thụ và trữ nước ở các vùng trũng; sử dụng tiết kiệm nước; hạn chế khai thác nước ngầm; xây dựng nhà máy xử lý nước mặn thành nước ngọt và xây dựng những công trình hồ chứa nước lũ.

Quan tâm về vấn đề “sống còn” của vùng, TS. Nguyễn Ngọc Huy, chuyên gia nghiên cứu về biến đổi khí hậu cho biết thêm: Hiện, các nghiên cứu đang tập trung vào lượng nước của ĐBSCL từ sông Mê Công đổ về hay lượng nước ngầm mà chưa tính toán đến lượng nước mưa ở vùng ĐBSCL.

Theo nghiên cứu, lượng mưa thấp nhất ở vùng ĐBSCL mỗi năm vào khoảng 1.600mm và những nơi cao nhất lên đến 2.400mm. Lượng nước mưa này có ý nghĩa quan trọng để sử dụng cho vùng ĐBSCL nhưng chưa được đưa vào kế hoạch, quy hoạch để sử dụng.

2.-nguoi-dan-soc-trang-ho-hoi-don-con-mua-vang-giai-nhiet.-anh-tho-chau-bct.png
Người dân Sóc Trăng hồ hởi đón cơn “mưa vàng” giải nhiệt. Ảnh Thổ Châu BCT

Theo TS. Nguyễn Ngọc Huy, ĐBSCL hiện đang giữ nước trên kênh và hòa tất cả các loại nước với nhau, thậm chí nước thải cũng về kênh; nước mưa hay nước sông cũng về kênh và đều không sử dụng được do ô nhiễm hoặc nhiễm mặn. Vì vậy, cần phải có “bài toán” rạch ròi để chống lãng phí nguồn nước ngọt cho vùng ĐBSCL.

“Cần phải phân biệt nguồn nước sử dụng sinh hoạt và nước cho thủy lợi để có những đề xuất phù hợp, hiệu quả trong sử dụng nước ở ĐBSCL. Chúng ta đầu tư hệ thống quản lý sử dụng nước vào giai đoạn này, có thể chi phí cho giải pháp rất lớn. Nhưng với tầm nhìn đầu tư để sử dụng 100 năm thì tôi tin đó không phải là một cái giá đắt, mà là một cái giá phù hợp”, TS. Nguyễn Ngọc Huy nêu quan điểm.

Các nhà khoa học nhận định, tình hình xâm nhập mặn ở ĐBSCL ngày càng tác động sâu hơn và thời gian lâu hơn. Giải pháp quy hoạch thủy lợi cần sử dụng nguồn tài nguyên nước theo hướng thuận thiên.

Điều này có nghĩa người dân và chính quyền vùng ĐBSCL cần phải coi trọng tất cả nguồn tài nguyên từ nước ngọt, nước lợ, nước mặn. Việc phát triển ĐBSCL cần theo hướng thích nghi có kiểm soát, chủ động tạo ra chế độ nước hợp lý trên nền chế độ tự nhiên, giảm mức độ rủi ro.

Xây hồ chứa để chủ động điều tiết, kiểm soát lượng nước

Trước các vấn đề cấp thiết liên quan đến thiếu nước ngọt tại ĐBSCL, mới đây, TS. Võ Văn Hải - Giám đốc Trung tâm Đào tạo bồi dưỡng cán bộ tài chính phía Nam (Bộ Tài chính) và một số nhà khoa học đã cùng nghiên cứu và có phương án đề xuất giải pháp thích hợp để góp phần vào việc xây dựng phát triển ĐBSCL bền vững, với dự án “Nước ngọt cho ĐBSCL”. Đó là phương án xây hồ chứa nước để chủ động điều tiết, kiểm soát lượng nước, giảm đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực đến đời sống dân sinh khu vực.

Theo đó, có hai khu vực để xây hồ là “Vườn quốc gia Tràm Chim” - Tam Nông - Đồng Tháp với 3 phương án có chi phí từ 30 nghìn đến 60 nghìn tỷ đồng; Khu bảo tồn “Lung Ngọc Hoàng” - Phụng Hiệp - Hậu Giang với 3 phương án có chi phí từ 18 nghìn tỷ đồng đến 68 nghìn tỷ đồng.

3.-de-xuat-xay-ho-chua-nuoc-de-chu-dong-dieu-tiet-kiem-soat-luong-nuoc-o-vuon-quoc-gia-tram-chim.jpg
Đề xuất xây hồ chứa nước để chủ động điều tiết, kiểm soát lượng nước ở Vườn quốc gia Tràm Chim

Lý giải về việc chọn 2 khu vực “Vườn quốc gia Tràm Chim” - Tam Nông - Đồng Tháp và Khu bảo tồn “Lung Ngọc Hoàng” - Phụng Hiệp - Hậu Giang để xây hồ chứa nước, TS. Võ Văn Hải cho rằng, Vườn quốc gia Tràm Chim nằm trong vùng trũng Đồng Tháp Mười, từng được biết đến như "túi nước" lớn của ĐBSCL. Việc xây dựng hồ chứa nước ngọt tại đây sẽ hỗ trợ việc điều tiết dòng chảy mùa khô và cung cấp nước cho các tỉnh Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long và Bến Tre thông qua hệ thống kênh liên tỉnh kết nối với các kênh Hồng Ngự - Long An, An Hòa, Đồng Tiến, Phú Hiệp. Đồng thời, việc mở rộng diện tích trong khu vực 5 xã vùng đệm cũng được thực hiện thuận lợi do mật độ dân số thấp (281 người/km2) và chi phí đền bù giải tỏa, tái định cư không quá cao.

Tương tự, việc xây dựng hồ chứa nước vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng, nằm trên khu vực của 3 xã Phương Bình - Phương Phú - Tân Phước (huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang), cũng mang lại nhiều lợi ích cho việc chứa nước và điều tiết nước đối với các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và một phần của tỉnh Kiên Giang và Thành phố Cần Thơ thông qua hệ thống kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp, Lái Hiếu, sông Cái Lớn và nhiều kênh rạch khác. Ngoài ra, việc xây dựng hồ chứa nước tại Lung Ngọc Hoàng cũng đóng góp vào việc bảo vệ khu bảo tồn cảnh quan thiên nhiên tại đây, một vùng đất quan trọng với vai trò lớn trong sinh sản và dự trữ thủy sản cho ĐBSCL.

Theo TS. Võ Văn Hải, mỗi phương án về chi phí xây dựng đều có những ưu, nhược điểm riêng nhưng nên chọn phương án 1 (chi phí khoảng 130 nghìn tỷ đồng) với phương châm “gian nan một lần, nhàn nhã trăm năm”; làm không chỉ vì hiện tại, mà làm còn vì những thế hệ mai sau.

Hơn nữa, do ĐBSCL ở cuối nguồn dòng Mê Công nên cần phải xây dựng những hồ chứa nước ngọt đủ lớn để điều tiết lưu lượng nước ngọt đáp ứng được nhu cầu cho toàn vùng, chứ không phải xây dựng những hồ chứa nước nhỏ tràn lan như hiện nay, vừa tốn kém ngân sách đất đai nhưng hiệu quả không cao. TS. Võ Văn Hải hy vọng “Dự án xây dựng hồ chứa nước ngọt cho ĐBSCL” sẽ được các nhà khoa học, quan tâm góp ý để dự án có thể trở thành một kênh tham khảo hữu ích của các cấp chính quyền.

Nguyễn Thủy