Biến đổi khí hậu

Xây dựng thông báo quốc gia về BĐKH

Khánh Ly 30/05/2024 - 08:33

(TN&MT) - Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng Thông báo quốc gia lần thứ 4 của Việt Nam, dự kiến hoàn thành và gửi Ban Thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (BĐKH) vào cuối năm nay. Trong đó, một nội dung quan trọng là kết quả kiểm kê phát thải khí nhà kính (KNK) quốc gia cho năm 2018 và 2020.

Cập nhật nỗ lực giảm phát thải

Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH do 155 nguyên thủ, người đứng đầu Chính phủ, Lãnh đạo đại diện Chính phủ ký vào tháng 6/1992 và có hiệu lực thi hành từ ngày 21/3/1994. Mục tiêu của Công ước là ổn định nồng độ các KNK trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu. Công ước là văn bản pháp lý quan trọng để các bên nước tham gia cùng triển khai các biện pháp ứng phó với BĐKH vì lợi ích chung của toàn nhân loại.

13-1619498018-anh-rung-ngap-man-2.jpg

Theo quy định, Việt Nam cũng như các bên tham gia khác cần xây dựng, cập nhật, công bố theo định kỳ kết quả kiểm kê quốc gia KNK, thích ứng BĐKH, giảm nhẹ phát thải KNK thông qua các báo cáo quốc gia gửi Ban Thư ký Công ước, trong đó có Thông báo quốc gia (TBQG). Thời gian qua, Việt Nam đã 3 lần gửi TBQG tới Ban Thư ký Công ước, thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm và nỗ lực thực hiện các giải pháp giảm nhẹ phát thải KNK, thích ứng với BĐKH, hướng tới phát triển bền vững.

Chia sẻ về nội dung dự kiến đưa vào TBQG lần thứ 4 của Việt Nam, ông Tăng Thế Cường - Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ TN&MT) - cơ quan soạn thảo cho biết: TBQG sẽ đưa ra bối cảnh của Việt Nam; kết quả kiểm kê quốc gia khí nhà kính cho 5 lĩnh vực phát thải chính, gồm: năng lượng; các quá trình công nghiệp và tiêu thụ sản phẩm (IPPU); nông nghiệp, Sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (LULUCF); chất thải).

Bên cạnh đó, TBQG cũng sẽ thông tin về tác động của BĐKH và các biện pháp thích ứng, giảm nhẹ phát thải KNK. Đặc biệt là nỗ lực của Việt Nam trong việc tích hợp, lồng ghép BĐKH vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chuyển giao công nghệ ứng phó với BĐKH. Cùng với nghiên cứu và các hoạt động quan sát BĐKH, những bước tiến về giáo dục, đào tạo, tăng cường năng lực và nâng cao nhận thức về BĐKH; chia sẻ thông tin và tham gia mạng lưới về biến đổi khí hậu; giới và BĐKH cũng sẽ được đưa vào TBQG. Cuối cùng là những khó khăn, thiếu hụt và nhu cầu hỗ trợ trong thực hiện các hoạt động ứng phó bBĐKH.

Theo ông Cường, kết quả kiểm kê quốc gia khí nhà kính cho năm 2018, 2020, nhóm chuyên gia đến từ nhiều cơ quan liên quan đã tiến hành thu thập, phân loại số liệu hoạt động; lựa chọn hệ số phát thải; tính toán phát thải KNK trong 5 lĩnh vực chính. Qua đó, đề xuất các biện pháp hoàn thiện kiểm kê quốc gia khí nhà kính đảm bảo tuân thủ nguyên tắc minh bạch, chính xác, nhất quán theo hướng dẫn của hướng dẫn của Ban Thư ký Công ước.

Nỗ lực giảm nhẹ phát thải KNK thể hiện qua loạt chính sách giảm phát thải KNK (quốc gia, lĩnh vực, địa phương); các hoạt động giảm nhẹ cụ thể triển khai Đóng góp do quốc gia tự quyết định, kết quả thực hiện các hoạt động giảm nhẹ đã báo cáo trước đó và cập nhật hoạt động mới. Việt Nam cũng đã triển khai các hoạt động đo đạc, báo cáo và thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK. Bên cạnh đó, tham gia nhiều cơ chế giảm phát thải như: Cơ chế phát triển sạch (CDM), Cơ chế tín chỉ chung (JCM), Tiêu chuẩn vàng, Chứng chỉ năng lượng tái tạo, Tiêu chuẩn các -bon được thẩm tra (VCS)...

Năng lượng vẫn là nguồn phát thải chính

Trong 5 lĩnh vực được kiểm kê, năng lượng vẫn là nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất của Việt Nam. Theo ông Nguyễn Văn Trường - chuyên gia Viện Năng lượng (Bộ Công Thương), kết quả tính toán kiểm kê phát thải năm 2018 của lĩnh vực là hơn 236 triệu tấn CO2 tương đương, năm 2020 tăng lên hơn 286 triệu tấn CO2 tương đương - gấp khoảng 1,6 lần so với năm 2014 (hơn 171 triệu tấn).

Trong 2 năm cơ sở lựa chọn kiểm kê, phát thải chủ yếu từ đốt nhiên liệu chiếm hơn 97% và phát thải do phát tán nhiên liệu chiếm trên 2%. Phương pháp kiểm kê mới đã bổ sung kết quả kiểm kê khí CO2 do phát tán trong khai thác than hầm lò và lộ thiên; kết quả kiểm kê khí CH4, N2O do phát tán trong quá trình chuyển hóa nhiên liệu, cụ thể là sản xuất than củi.

Thời gian qua, các hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK được thực hiện theo một số hình thức chính như tham gia các dự án giảm nhẹ phát thải KNK cấp vùng hoặc quốc gia. Nhiều địa phương tiếp tục thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, như thí điểm thực hiện các biện pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả như xây dựng hệ thống chiếu sáng bằng pin năng lượng mặt trời, thay thế hệ thống chiếu sáng bằng đèn LED tại các doanh nghiệp, cơ quan; tuyên truyền nâng cao nhận thức, phát hành Sổ tay phổ biến kiến thức về quản lý tiết kiệm năng lượng, hiệu quả trong doanh nghiệp trên địa bàn địa phương...

Nhiều địa phương cũng đang tăng cường các hoạt động đầu tư cho các dự án công và tư nhân trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, giảm phát thải KNK (như xử lý rác sinh hoạt, nước thải bằng công nghệ tiên tiến), bảo vệ và phát triển rừng kết hợp thí điểm kinh doanh tín chỉ các - bon rừng và các dự án phát triển thành phố các - bon thấp... Thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, các địa phương cũng đã tổ chức thực hiện các hoạt động kiểm kê khí nhà kính và tổ chức tập huấn, hướng dẫn kiểm kê KNK cho các doanh nghiệp.

Để hoàn thiện TBQG, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục tham vấn ý kiến các bên liên quan, lồng ghép các kết quả kiểm kê cấp bộ, ngành, địa phương, trong thời gian tới nhằm đảm bảo tính thống nhất, bám sát thực tiễn kết quả giảm nhẹ của quốc gia.

Khánh Ly