Tài nguyên nước

Báo động an ninh nguồn nước Đồng bằng sông Cửu Long

Theo TTXVN 12/05/2024 - 08:59

Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn Quốc gia, mùa mưa năm 2024 đến muộn, tổng lượng mưa trên khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trong tháng 5/2024 ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm khoảng 20%.

Chú thích ảnh
Khu vực Mũi Cà Mau nhìn từ trên cao. Ảnh: Thế Anh/TTXVN

Ủy hội sông Mê Công quốc tế và các tổ chức quốc tế dự báo lượng mưa trong tháng 5/2024 trên lưu vực sông Mê Công thấp hơn trung bình nhiều năm từ 20 - 30%.

Trong khi đó, diễn biến xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn nước từ thượng nguồn sông Mê Công. Do đó, việc mùa mưa đến muộn cộng với nguồn nước sông Mê Công về ngày càng ít, đã đưa ra lời cảnh báo về nguồn cung cấp nước cho Đồng bằng sông Cửu Long trở nên đáng báo động và các giải pháp nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước cho vùng này đang trở nên cấp thiết.

Đe dọa an ninh nguồn nước

Theo nhận định của Ủy ban sông Mê Công Việt Nam, với các điều kiện như trên và nhận định dòng chảy từ sông Lan Thương (Trung Quốc) vẫn ở mức thấp, dòng chảy qua trạm Kra-chê (Campuchia) trong tháng 5/2024 biến động trong khoảng từ 8,9 tỷ m3 đến 10,7 tỷ m3; trong khi lượng nước trữ ở Biển Hồ (Campuchia) hiện tại là 1,2 tỷ m3 nên đóng góp không đáng kể ra dòng chính sông Mê Công trong thời gian tới ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Kết hợp các thông tin trên với dự báo thủy triều, tài nguyên nước tới Đồng bằng sông Cửu Long trong tháng 5/2024, Ủy ban sông Mê Công Việt Nam đưa ra các nhận định về diễn biến dòng chảy tại Tân Châu và Châu Đốc.

Theo đó, mực nước lớn nhất ngày tại trạm Tân Châu trong tháng 5/2024 có xu thế biến động theo thủy triều trong khoảng từ 0,9 m đến 1,4m. Lưu lượng trung bình ngày tới Đồng bằng sông Cửu Long qua hai trạm Tân Châu và Châu Đốc trong tháng 5/2024 được nhận định sẽ biến động trong khoảng từ 3.200 m3/s đến 5.200 m3/s, ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm và cùng kỳ năm 2023, nhưng cao hơn so với năm 2020.

Tổng lượng dòng chảy trong tháng 5/2024 qua hai trạm này có thể sẽ ở mức từ 9,7 tỷ m3 đến 11 tỷ m3 ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm khoảng từ 19 đến 28%, thấp hơn cùng kỳ năm 2023 khoảng từ 7 đến 18%, nhưng cao hơn cùng kỳ năm 2020 khoảng từ 16 đến 30%.

Theo Ủy ban sông Mê Công Việt Nam, nhận định xâm nhập mặn Đồng bằng sông Cửu Long vượt qua thời kỳ cao điểm và đang có chiều hướng giảm dần. Tuy nhiên, do lượng nước về từ thượng lưu còn ở mức thấp, mùa mưa ở Đồng bằng bông Cửu Long đến muộn nên xâm nhập mặn vẫn còn ở mức cao và có thể tiếp tục ảnh hưởng đến cuối tháng 5. Đặc biệt là trên sông Vàm Cỏ Tây, do nguồn nước cung cấp trong thời gian tới vẫn rất hạn chế, nên tình hình xâm nhập mặn tiếp tục kéo dài và có thể ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của người dân.

Dự báo chiều sâu ranh mặn 4‰ tại các sông chính ở mức 40 - 50 km trên sông Tiền, sông Hậu; từ 90 - 110 km trên sông Vàm Cỏ Tây. Do tình hình xâm nhập mặn vẫn còn diễn biến phức tạp, các địa phương cần tiếp tục chủ động giám sát mặn, cập nhật các thông tin dự báo mặn của các cơ quan chuyên ngành để chủ động bố trí lịch mùa vụ Hè Thu hợp lý và vận hành công trình để tiêu thoát môi trường trong nội vùng cũng như các tác hại khác của hạn mặn trên địa bàn. Đối với, các khu vực cách biển từ 50km trở vào, khi nguồn nước ngọt trên sông ổn định, xem xét xuống giống vụ Hè Thu năm 2024.

Thực tế cho thấy, vào mùa khô, nguồn nước, diễn biến xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn nước từ thượng nguồn sông Mê Công và dự báo còn chịu nhiều biến động, ảnh hưởng đến sản xuất, sinh hoạt của người dân và đe dọa về an ninh nguồn nước cho Đồng bằng sông Cửu Long.

Liên quan đến thực trạng nguồn nước sông Mê Công chảy về Đồng bằng sông Cửu Long, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam đưa ra cảnh báo an ninh nguồn nước từ các tác động lớn gây ra nhiều bất lợi đối với Đồng bằng sông Cửu Long.

Hiện Đồng bằng sông Cửu Long đang chịu 3 loại tác động lớn và rất bất lợi như phát triển thượng lưu sông Mê Công, với nhiều hồ chứa được xây dựng, dung tích hữu ích hiện nay ước tính khoảng 69-73 tỷ m3. Tác động từ biển, trong đó nước biển dâng là quan trọng nhất và lún sụt mặt đất do cấu kết tự nhiên và con người khai thác nước ngầm, xây dựng hạ tầng gây ra. Trong đó, 2 yếu tố đầu tiên và một phần yếu tố thứ 3 là từ bên ngoài, đặt Đồng bằng sông Cửu Long vào thế phải chống đỡ, thích nghi.

Các tác động lớn đến Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm dòng chảy về Đồng bằng thay đổi quy luật, do đó làm thay đổi chế độ nước trên đồng bằng cả hai mùa lũ và kiệt. Mất phù sa về đồng bằng, dẫn đến xói lở bờ sông, bờ biển. Nguồn nước mùa khô biến động mạnh, đặc biệt là hạn mặn có thể xảy ra bất thường và nghiêm trọng hơn.

Với các tác động nói trên, Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt 3 thách thức rất lớn đối với phát triển bền vững là an ninh nguồn nước, ngập nước diện rộng và kéo dài trong tương lai và suy thoái đồng bằng như xói lở bờ biển, bờ sông và hạ thấp đồng bằng.

Chủ động thích nghi có kiểm soát

Chú thích ảnh
Dự án hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1 là một trong những dự án quan trọng được thực hiện theo Nghị quyết số 120 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, vùng hưởng lợi của Hệ thống gồm 5 tỉnh: Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN

Trên cơ sở những cảnh báo nêu trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam cho biết, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn nhận diện và định hướng chiến lược quan trọng đối với đồng bằng là chủ động thích nghi có kiểm soát, làm chủ tình huống khi bất lợi xảy ra, lấy tài nguyên nước làm cốt lõi để bố trí sản xuất, định hướng phát triển.

Đồng bằng sông Cửu Long cần chủ động về nguồn nước cho các vùng sản xuất dựa theo sinh thái tự nhiên, với 3 loại hình tiêu biểu là thủy sản mặn lợ ven biển, trái cây và lúa gạo.

Đối với vùng ven biển, đây là vùng khó khăn về nước và dễ bị tổn thương, nhiệm vụ trọng yếu là chủ động nguồn nước, được thực hiện theo chiến lược nâng cấp các hệ thống thủy lợi ven biển như: Xây dựng các công trình kiểm soát mặn, lấy nước ngọt và chủ động chuyển nước ngọt cho các vùng khan hiếm nước có tiềm năng kinh tế cao như các vùng nuôi tôm.

Cùng với các hệ thống thủy lợi tăng cường nguồn cấp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khuyến khích nhân dân tự tích nước, tích nước rải, quy mô hộ gia đình.

Đối với vùng ngập lũ, theo đánh giá và dự báo của Viện Khoa học thủy lợi miền Nam, hiện nay tần suất xuất hiện lũ lớn giảm mạnh (khoảng 10 - 15 năm mới xuất hiện 1 lần; tương lai khi thượng lưu hoàn thiện các hồ chứa theo quy hoạch khoảng 110 tỷ m3 thì khoảng 90 - 100 năm mới xuất hiện 1 lần), lũ vừa và lũ nhỏ xuất hiện thường xuyên, do đó việc sản xuất trên vùng ngập lũ cần thay đổi cho phù hợp để khai thác tốt nhất tài nguyên đất và nước với các mô hình kinh tế nông nghiệp phù hợp.

Lãnh đạo Viện Khoa học thủy lợi miền Nam nhận định trong bối cảnh diễn biến xâm nhập mặn có xu thế xuất hiện ngày càng gay gắt, biến động bất thường và thường xuyên hơn, trong khi các giải pháp hệ thống công trình thủy lợi còn đang dần hoàn thiện trong thời gian tới. Do đó, để giảm thiểu tối đa thiệt hại, Viện Khoa học thủy lợi miền Nam khuyến cáo các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cần tiếp tục tăng cường các giải pháp phi công trình để chỉ đạo điều hành, xây dựng các kịch bản hạn hán, xâm nhập mặn có thể xảy ra trên địa bàn và giải pháp ứng phó phù hợp.

Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long tăng cường, hiện đại hóa công tác giám sát, cập nhật các bản tin của các cơ quan dự báo chuyên ngành phục vụ cho công tác điều hành mùa vụ, tạo thuận lợi cho nhân dân có thông tin về nguồn nước để chuyển đổi sản xuất ngắn và dài hạn. Điều chỉnh mềm dẻo lịch sản xuất theo từng mùa, từng năm. Thay đổi, điều chỉnh các mô hình sản xuất theo hướng ít sử dụng nước ngọt hơn và tăng cường khuyến khích người dân tích trữ nước trong các ao, mương khu vực vườn cây ăn trái và trên ruộng (đối với lúa) trước thời điểm dự báo có đợt xâm nhập mặn.

Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long rà soát, hoàn thiện quy trình vận hành các hệ thống thủy lợi đã hình thành để tăng cường vận hành, kết nối nguồn nước trong nội vùng nhằm nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên đất - nước và công trình thủy lợi, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam cho biết.

Theo TTXVN