Chiến thắng Điện Biên Phủ: “Bí mật nằm ở những góc khuất bất ngờ”
(TN&MT) - “Trận địa giả” - một cách nghi binh, thu hút địch được sử dụng trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta.
“Bí mật nằm ở những góc khuất bất ngờ”
… Khẩu pháo của chúng tôi vừa kéo vào tới Bản Tấu - trận địa pháo đầu tiên được chuẩn bị để đánh vào Điện Biên Phủ thì được lệnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch: “Tất cả các đơn vị kéo pháo ra vị trí ban đầu chờ lệnh”.
Anh em chúng tôi ai nấy đều rã rời cả chân tay! Ai cũng thắc mắc: “Sau bao ngày đêm gian khổ mới đưa được pháo vào trận địa mà nay lại phải kéo pháo ra?”. Ngay đêm đó, tôi thấy chi bộ Đảng họp, tổ Đảng họp, anh em thì thầm với nhau chắc là có chuyện gì đặc biệt lắm đây!
Sáng hôm sau, từng khẩu đội pháo 1 họp để nghe anh Nghĩa - Trung đội trưởng phổ biến tình hình. Đại ý: Bị quân ta tấn công mạnh, quân địch đã phải rút quân ở thị xã Lai Châu về tăng cường cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tình hình địch đã có những thay đổi… Về phía quân ta: Trận địa đã bị lộ, pháo của ta lại kéo bằng tay, tiếp đạn cho pháo lại bằng đôi vai của dân công vác từng quả một, không bảo đảm được tính cơ động cho pháo khi tham gia chiến đấu! Vì những lý do đó nên Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định kéo phải ra, thiết lập trận địa mới. Lúc này anh em chúng tôi mới hiểu rõ quyết tâm của trên, động viên nhau làm tiếp nhiệm vụ.
Trời Điện Biên đã vào mùa đông, cái lạnh của núi rừng Tây Bắc khiến anh em chúng tôi không khỏi chạnh lòng nhớ tới quê hương những ngày giáp Tết. Ngay đêm 26 tháng 1 năm 1954, tiểu đội công binh chúng tôi gồm 12 người, anh Tự là Tiểu đội trưởng, tôi là Tiểu đội phó, được anh Nghĩa - Trung đội trưởng thông báo lên tiểu đoàn nhận nhiệm vụ mới. Như vậy, tiểu đội tôi không còn ở trong đội hình kéo pháo ra!
Sau một đêm hành quân cật lực, tiểu đội tôi mới được tiểu đoàn. Sau vài giờ nghỉ ngơi cho lại sức, anh Đình Năm - Tiểu đoàn trưởng trực tiếp gặp chúng tôi giao nhiệm vụ. Anh nói: “Lý do phải kéo pháo ra chắc các cậu đã rõ cả rồi, chính vì lý do đó mà mặt trận cần phải có một trận địa pháo mới! Trận địa này phải đạt được những yêu cầu sau:
Thứ nhất, Bí mật nằm ở những góc khuất bất ngờ.
Thứ hai, Đường kéo pháo bằng ô tô phải tới tận các hầm pháo, để bảo đảm tính cơ động khi chiến đấu.
Thứ ba, Phải có một trận địa nghi binh ở phía trước để thu hút phi pháo địch, bảo vệ an toàn cho trận địa pháo của ta.
Nhiệm vụ mở đường mới đã có các đơn vị tham gia chiến dịch lo. Riêng tiểu đội các cậu được giao nhiệm vụ biệt phái, đi phối thuộc với Trung đoàn pháo 45 lập trận địa nghi binh, nhiệm vụ như thế nào khi tới Trung đoàn pháo 45 sẽ được giao cụ thể. Trước khi lên đường, tiểu đoàn sẽ trang bị mới cho các cậu: một bộ đồ mộc công (gồm đục, chàng, cưa, búa…) và những cuốc xẻng mới để sang đó các cậu tác nghiệp cho nhanh”.
Nhìn quanh chúng tôi một lượt, Tiểu đoàn trưởng hỏi: “Nhiệm vụ đại thể như vậy, có cậu nào còn hỏi gì không?”.
Anh em chúng tôi nhìn nhau và đồng thanh đáp: “Rõ!” (Vì mọi việc cụ thể phải đến Trung đoàn pháo 45 mới biết).
Tiếp đó, anh Vương Thiều - Tiểu đoàn phó, Tham mưu trưởng giao cho chúng tôi địa chỉ cần đến của Trung đoàn pháo 45 và căn dặn: “Thời gian rất gấp, tới đó nhận nhiệm vụ các cậu phải bắt tay vào công việc ngay”. Tất cả chúng tôi đều tỏ quyết tâm qua lời đáp… “Rõ!”. Anh Năm - Tiểu đoàn trưởng đứng dậy vỗ vai, bắt tay từng người và dặn thêm: “Các cậu nhớ phát huy truyền thống mở đường của tiểu đoàn ta trong chiến dịch Hòa Bình nhé!”.
Trận địa mới - Nhiệm vụ mới
Đêm ấy, trong trận gió đông bắc, chúng tôi len lỏi đi, xuyên rừng, vượt suối, qua các khúc đường kéo pháo bằng ô tô do bộ đội ta vừa mới mở.
Địa điểm chúng tôi đến là dãy núi phía đông Mường Thanh, ở đó, các anh trong Ban Chỉ huy Trung đoàn pháo 45 đang ngóng đợi. Tiểu đội chúng tôi được đón tiếp như một đoàn khách quý. Cuộc liên hoan nhỏ được bày ra bằng những chiến lợi phẩm vừa mới thu được từ Lai Châu về. Anh Thắng - Chính ủy Trung đoàn pháo 45 nói: “Tiểu đội công binh được Bộ Chỉ huy mặt trận cử về phối thuộc với Trung đoàn pháo chúng ta đã tới, xin mời các anh cùng chúng tôi ăn Tết trước để bắt tay vào nhiệm vụ mới! Chúng ta vừa ăn liên hoan vừa nghe nhiệm vụ nhé!”.
Anh nói tiếp: “Trận địa mới của chúng ta phải bảo đảm tuyệt đối bí mật cho tới ngày giờ nổ súng; từ việc chuyển quân, mở đường đào hầm pháo, lập trận địa nghi binh, đều phải tuyệt đối tuân theo các quy định bảo mật của mặt trận đề ra. Do vậy, trên trận địa mới này, Bộ Chỉ huy mặt trận không sử dụng lực lượng dân công, mọi công việc đều do bộ đội đảm nhiệm hết.
Tiểu đội công binh được trên cử xuống phối thuộc với trung đoàn sẽ đảm nhận nhiệm vụ xây dựng trận địa nghi binh (trận địa giả). Sau cuộc liên hoan này, cán bộ tham mưu tác chiến của trung đoàn sẽ giao nhiệm vụ và dẫn tới trận địa nghi binh làm nhiệm vụ ngay. Vì thời gian gấp nên trung đoàn yêu cầu sau 3 ngày, trận địa nghi binh phải thiết lập xong!”.
Trận địa nghi binh của chúng tôi là một quả đồi sống trâu, cao hơn trận địa pháo phía sau một chút. Từ trận địa này, chúng tôi nhìn thấy cứ điểm Mường Thanh rõ mồn một! Cầu Mường Thanh, trận địa pháo của địch, ô tô chúng chạy qua lại nhìn rất rõ! Có cảm giác như ở đây mình ho to là chúng có thể nghe được.
Sau 2 ngày đêm đào liên tục, trận địa chúng tôi cơ bản đã hoàn thành: Một đường hào dài 30 mét, sâu 1,5 mét có nắp và hàm ếch ở ba đoạn (đoạn giữa và ở 2 đầu). Đây sẽ là nơi xử lý tình huống khi chiến đấu.
Sau khi làm xong việc xây dựng trận địa nghi binh, chúng tôi được triệu tập về lại Sở Chỉ huy Trung đoàn pháo 45 để nhận nhiệm vụ chiến đấu và hướng dẫn những điều cần thiết. Anh Hữu - Tham mưu Tác chiến của trung đoàn nói: “Trận địa nghi binh ở phía trước làm sao phải kết hợp thật chặt chẽ với trận địa thật phía sau ngay từ khi quả pháo đầu tiên ra khỏi nòng! Nghĩa là tiếng nổ đầu nòng phải thật khớp với tiếng nổ bộc phá ở trận địa nghi binh (phải là một), nếu không khớp, địch dễ phát hiện đây là trận địa giả lừa chúng - Tiếp đó, nhịp nhàng cứ 6 giây một quả nổ dồn bằng thủ pháo ném tay cho tới khi có lệnh ngừng!”.
Để thực hiện yêu cầu trên, anh em chúng tôi được hướng dẫn cách điểm hỏa bằng điện và điểm hỏa bằng tay. Chỉ sau một giờ hướng dẫn, chúng tôi đã nắm được cách mắc dây, lắp kíp, điểm hỏa bằng điện và cách gói bộc phá, gắn kíp, điểm hỏa bằng tay. Sau đó, mỗi chúng tôi được thực tập một lần qua kíp nổ mà không có thuốc. Đồng chí Tham mưu Tác chiến trung đoàn đánh giá chúng tôi làm tốt.
Màn đêm dần buông xuống, tiếng côn trùng rả rích khắp nơi, gió bấc thổi vào cửa hầm như hối hả, giục giã chúng tôi tiếp tục công tác chuẩn bị cho giờ nổ súng 4 cây số dây điện thoại được chúng tôi gỡ ra kiểm tra và nối lại chắc chắn từng mối một và được thử qua máy điện thoại, chuông kêu giòn giã! Lúc ấy đêm đã về khuya, vợ chồng chú chim “thủ thỉ thù thì” vẫn còn chuyện trò, to nhỏ đâu đây, như ru chúng tôi vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau chưa rõ mặt người, các chú gà rừng trên nương đã đánh thức chúng tôi dậy… Sau khi được ăn nắm xôi nóng với thịt hộp chiến lợi phẩm do anh nuôi thổi nấu qua bếp Hoàng Cầm, ai nấy đều như được tiếp thêm sức mạnh. Ngay sau đó, chúng tôi được giao nhiệm vụ mắc đường dây điện thoại từ Sở Chỉ huy trung đoàn tới trận địa nghi binh, theo sự hướng dẫn của Trợ lý Thông tin trung đoàn.
Hai ngày sau thì chúng tôi triển khai xong 2 đường dây (trong đó có đường dây vu hồi), cả 2 đường đều được đào sâu và ghim chặt xuống đất để bảo đảm an toàn khi chiến đấu. Tiếp sau đó là dựng 3 khẩu pháo giả làm bằng thân cây chuối trước 3 căn hầm hàm ếch rồi ngụy trang kín đáo chờ lệnh! Mọi việc xong xuôi, chúng tôi lại trở về Sở Chỉ huy Trung đoàn đợi lệnh.
Thấm thía cái nghĩa, cái tình của Đảng, của dân
…Đêm trước ngày vào nhiệm vụ, anh Lưu - Trợ lý Quân lực của trung đoàn mang chỉ thị tổ chức chiến đấu ở trận địa nghi binh xuống phổ biến cho chúng tôi. Anh nói: “Tham gia chiến đấu ở trận địa nghi binh không cần phải nhiều người, ngược lại càng ít càng tốt. Bây giờ tôi xin hỏi: trong anh em chúng ta, ai là người đã có gia đình (vợ và con)… Ai thuộc nhà con một?... Ai thuộc nhà con đông?... Họ và tên từng người… ngày sinh… quê quán… khi cần báo tin cho ai… ở làng quê nào”…
Sau đó, anh Lưu nói: “Tiểu đội công binh chia thành 2 tổ, tổ 1 có anh Phong, anh Bách, anh Cơ, do anh Phong làm Tổ trưởng. Tổ 2 có anh Tự, anh Giáp, anh Nhị, do anh Tự làm Tổ trưởng (hai cán bộ tiểu đội trực tiếp làm Tổ trưởng)”.
Khi nhìn lại anh em trong 2 tổ chiến đấu, chúng tôi đều nhận thấy tất cả đều là nhà con đông và chưa anh nào có gia đình. Chúng tôi nhìn nhau, cùng thấm thía cái nghĩa, cái tình của Đảng đối với nhân dân (trước cái riêng của tình gia đình và cái chung của toàn dân tộc!).
Tổ tôi vinh dự được tham gia chiến đấu trước. Chúng tôi được dẫn qua hầm của cơ quan tham mưu tác chiến, số còn lại được dẫn qua hầm cơ quan tham mưu hậu cần. Tôi thấy bản đồ các trận địa pháo treo la liệt, chuông điện thoại các máy đổ liên hồi. Các trận địa tới tấp báo cáo về sở chỉ huy: Đã sẵn sàng đợi lệnh! Chúng tôi tới trước một bản đồ trận địa mà tổ tôi đảm nhận nhiệm vụ nghi binh. Anh Trưởng ban Tác chiến của trung đoàn nói rõ yêu cầu với tổ chúng tôi:
“…Lên tới trận địa là lúc máy điện thoại của các anh phải áp liền tai để nghe khẩu lệnh của Sở Chỉ huy (không một phút giây lơi lỏng). Khi nghe khẩu lệnh “bắn”, lập tức phải điểm hỏa bộc phá bằng điện ngay. Làm sao để tiếng nổ thủ pháo ở trận địa nghi binh khớp với tiếng nổ đầu nòng của pháo ở trận địa thật. Làm được như vậy là chúng ta đã giành được thắng lợi ngay từ phút đầu. Ở quả pháo đầu và trong trận đánh đầu, các anh hãy bình tĩnh, dũng cảm, chiến đấu thật tốt!”. Cả tổ đồng thanh: “Xin hứa”.
Sáng hôm sau, ngày 13 tháng 3 năm 1954, khi trời vừa tan hết lớp sương mù, những bầy chim ngói bay đi tìm thóc ở các nương, tổ chúng tôi chính thức lên đường vào trận địa. Hành trang chúng tôi mang theo: bộc phá, dây dẫn, máy điểm hỏa, bật lửa, hương (nhang) dùng để điểm hỏa bằng tay, nước uống, bánh chưng và không quên 1 máy điện thoại của Trung Quốc.
Sau 4 giờ hành quân không nghỉ, chúng tôi tới trận địa; khẩn trương lắp máy điện thoại vào báo cáo về Sở Chỉ huy trung đoàn. Sở Chỉ huy biểu dương chúng tôi và yêu cầu triển khai nhiệm vụ chiến đấu ngay. Việc đầu tiên là kiểm tra lại toàn bộ công sự, hầm, hào, tiếp là 3 khẩu pháo giả 105 ly rồi ngụy trang lại chu đáo, sau đó lắp đặt bộc phá điểm hỏa bằng điện cho 3 khẩu pháo rồi đến các quả bộc phá điểm hỏa bằng tay (đốt bằng hương) được xếp đặt thứ tự ngay ngắn trong các công sự hàm ếch.
Khi trời đã xế chiều, những chiếc máy bay Đa-cô-ta vận tải của địch thả những dù hàng cuối cùng trong ngày xuống Mường Thanh, chúng tôi nhận được lệnh của Sở Chỉ huy trung đoàn: “Tất cả vào vị trí chiến đấu, máy điện thoại áp liền tai đợi lệnh!”. Thật không gì thiêng liêng và hồi hộp hơn giây phút chờ lệnh nổ phát súng đầu tiên. Tôi nhắc anh em trong tổ tranh thủ ăn bữa chiều kẻo tối đói…
Màn đêm trên Điện Biên Phủ đã dần buông xuống, những chiếc xe cam-nhông của địch chở hàng tiếp tế do máy bay chúng thả xuống đã bật đèn pha loang loáng, dọc ngang trên khu vực Mường Thanh.
17 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1954, tiếng u… u trong tổ hợp điện thoại bỗng ngưng lại. Thay vào đó là mệnh lệnh chiến đấu từ Sở Chỉ huy Mường Phăng vang lên, hạ lệnh cho Quyền Tư lệnh Đại đoàn Công pháo 351 Đào Văn Trường “cho nổ súng!”. Ngay sau đó, khẩu lệnh từ Sở Chỉ huy pháo binh hô vang (tôi cũng theo đó hô vang): … Mục tiêu… cự ly… tầm… hướng… đạn.
Đúng 17 giờ 5 phút, đạn xuyên loạt đầu “bắn!”. Khẩu lệnh bắn vừa dứt thì trận địa chúng tôi rung lên ánh chớp sáng lòa do 3 quả bộc phá vừa điểm hỏa bằng điện. Ngay sau đó là những thủ pháo điểm hỏa bằng tay tung ra phía trước rất ăn khớp nhịp nhàng đúng như kế hoạch đã định. Tôi tranh thủ nhoài người lên miệng công sự quan sát về phía cứ điểm Mường Thanh đang ngập chìm trong khói lửa. Từ ống nghe của điện thoại, chúng tôi được Sở Chỉ huy trung đoàn biểu dương: đã phối hợp tuyệt vời ngay từ quả đầu trong loạt đạn đầu, góp phần làm cho các trận địa pháo của địch thiệt hại nặng, không kịp phản ứng (tôi đọc lời biểu dương đó cho cả tổ nghe).
Sau những phút hoảng loạn, định thần lại, pháo binh của địch bắt đầu phản pháo lên trận địa chúng tôi một cách yếu ớt. Vì lợi thế nằm trên “lưng trâu” nên trận địa của chúng tôi khi bị pháo địch phản lại, đạn chúng đều rơi xuống “bụng” và “chân trâu” hết. Cũng có đôi quả rơi vào chỗ chúng tôi, tiếng nổ chát chúa ù tai và làm sạt lở ít hầm hào nhưng không ai làm sao cả!
Sáng hôm sau, sương mù còn bao phủ khắp núi rừng Điện Biên, Sở Chỉ huy trung đoàn gọi tới, động viên và giao nhiệm vụ: “Giở hết ngụy trang trên trận địa, sẵn sàng thu hút máy bay địch”. Chỉ sau 20 phút, trận địa chúng tôi đã phơi ra (nửa kín nửa hở) đúng như ý đồ chỉ đạo. Khi sương mù còn dày, tôi tranh thủ đi kiểm tra hầm hào của anh em và động viên nhau “quyết chí vững trận địa”, đồng thời nhắc nhau tranh thủ ăn để lấy sức. Lúc này ai cũng thấy đói, muốn ăn, song không ai ăn được vì miệng đắng quá do sặc khói bộc phá và khói đạn pháo đêm qua.
Mặt trận phía đông đã có những tia nắng xuyên qua lớp sương mù chiếu xuống những cánh rừng lúp xúp phía xa. Trên bầu trời xuất hiện những chấm đen đang lao về phía trận địa của chúng tôi. Ngay lúc đó, lệnh của Sở Chỉ huy vang lên: “Tất cả xuống công sự, bám sát hoạt động của địch”.
Khi 3 chiếc khu trục trong tốp đầu tiên bổ nhào cắt bom cũng là lúc các trận địa phòng không của ta được lệnh nổ súng. Súng máy 12,7 ly, 14,5 ly và pháo cao xạ 37 ly nhả đạn bao vây tốp máy bay địch, một chiếc bốc cháy lao về hướng tây bắc cánh đồng Mường Thanh. Tốp thứ hai, 3 chiếc B26 bổ nhào cắt bom, trận địa rung lên hất mỗi chúng tôi về các phía, nằm yên bất động.
Trận địa bị trúng bom hoàn toàn, đường dây thông tin bị đứt. Khi tỉnh lại, cả 3 chúng tôi đều đang ở quân y viện Cửu Long, bệnh viện tiền phương của chiến dịch, các cô y tá kể lại trong nước mắt là “các anh vào đây được 2 ngày rồi. Bọn em cứ tưởng các anh không qua được. Mắt anh nào cũng lồi ra. Mồm, mũi anh nào cũng đầy máu. Thoi thóp thở”. Một chị đứng tuổi nói: “Thật là phúc cho các em được phù hộ! Không thì…”. Chúng tôi xúc động cảm ơn các bác sĩ, y tá, các anh chị hộ lý đã chăm nom, săn sóc chúng tôi.
Qua cơn nguy kịch, anh Lưu - Trợ lý Quân lực của trung đoàn tới đón và dẫn chúng tôi về Sở Chỉ huy trung đoàn. Người đầu tiên ra đón là anh Thằn - Chính ủy Trung đoàn. Mắt đỏ hoe, anh dang rộng tay ôm lấy từng người chúng tôi, rồi nói: “Hoan hô các thiên thần của chúng ta đã từ cõi chết trở về!”. Anh em chúng tôi xúc động thật sự, nước mắt cứ trào ra trước thái độ, cử chỉ của người Chính ủy thay mặt Đảng nói lên những lời như vậy! Tưởng như không có phần thưởng nào cao quý hơn! Tôi cũng được biết khi chúng tôi vào bệnh viện thì tổ anh Tự đã vào thay tổ chúng tôi làm tiếp nhiệm vụ nghi binh cho trận địa pháo binh chiến dịch…
* Nguyên Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Lữ đoàn 596 Bộ Tư lệnh Thông tin; nguyên Tiểu đội phó Công binh phối thuộc Trung đoàn 45 (Lựu pháo 105) trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.