Cạo trọc đầu để... đánh giặc
(TN&MT) - Nhiều người biết Trung tướng Lê Nam Phong đánh giặc giỏi với những biệt danh “Năm lửa”, “Năm hỏa lực”, "Năm bình tông", "Hùm xám Đông Nam Bộ"… Cũng nhiều người biết Tướng Nam Phong là Đại đội trưởng Đại đội 225 (Tiểu đoàn 322, Trung đoàn 88 - Trung đoàn Tu Vũ, Đại đoàn 308) làm nhiệm vụ mở cửa mở đánh vào đồi Độc Lập tại chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhưng, ít ai biết lý do vì sao ông lại có biệt danh “Đại đội trưởng đầu trọc”.
Nhiều người biết Trung tướng Lê Nam Phong đánh giặc giỏi với những biệt danh “Năm lửa”, “Năm hỏa lực”, "Năm bình tông", "Hùm xám Đông Nam Bộ"… Cũng nhiều người biết Tướng Nam Phong là Đại đội trưởng Đại đội 225 (Tiểu đoàn 322, Trung đoàn 88 - Trung đoàn Tu Vũ, Đại đoàn 308) làm nhiệm vụ mở cửa mở đánh vào đồi Độc Lập tại chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhưng, ít ai biết lý do vì sao ông lại có biệt danh “Đại đội trưởng đầu trọc”.
Tham gia đánh đồi Độc Lập
Đợt đầu chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 308 Vương Thừa Vũ được giao nhiệm vụ Chỉ huy trưởng trận tiến công vào đồi Độc Lập, Chỉ huy phó là Đại đoàn phó 308 Cao Văn Khánh và Đại đoàn phó 312 Đàm Quang Trung. Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 do Trung đoàn trưởng Bùi Nam Hà chỉ huy đánh vào hướng Đông Bắc là hướng thứ yếu, Trung đoàn 165, Đại đoàn 312 đánh vào hướng chủ yếu là hướng Đông Nam cứ điểm, ngoài ra có sự hỗ trợ của Đại đội lựu pháo 803, sơn pháo 752, 753 và hai đại đội súng cối 120 ly.
Đồi Độc Lập dài 700m, rộng 150m, cách Mường Thanh 4km, có tiểu đoàn 5 trung đoàn 7 Angiêri và một đại đội ngụy Thái phòng ngự, được tăng cường 4 khẩu cối 120mm và pháo binh ở Mường Thanh, Hồng Cúm bắn chi viện. Đêm 13/3, quân ta đã chiếm Him Lam, địch đoán ta sẽ đánh đồi Độc Lập nên tìm mọi cách ngăn cản bằng hỏa lực mạnh. Chỉ trong 3 ngày, từ 13/3 - 15/3/1954, quân địch đã bắn trên ba vạn viên đạn pháo, đêm 14/3, chúng còn huy động máy bay oanh tạc suốt đêm tạo hàng rào lửa ngăn chặn bước tiến quân của ta.
Đêm 14/3, các đơn vị ta hành quân dưới làn mưa đạn, pháo 105 ly, pháo 155 ly của địch. Trời cũng mưa tầm tã như thử lòng người. Bộ đội phải dùng áo mưa và cởi cả áo che cho bộc phá và súng đạn. Hơn 1 giờ sáng quân ta mới chiếm lĩnh giao thông hào tiến công cách chân hàng rào thứ nhất khoảng gần 200m. Ai nấy đều nóng lòng chờ các đơn vị sơn pháo của ta đưa lên triển khai mới bắt đầu tiến công, nhưng do trời mưa to, đường trơn, cây đổ, sơn pháo phải gần sáng mới triển khai xong.
Ngồi trong giao thông hào mà lòng các chiến sĩ như lửa đốt, Đại đội trưởng Lê Nam Phong vẫn nhớ như in những giây phút chờ đợi, pháo địch ì oàng bắn, mưa lúc to lúc nhỏ, trời giá rét căm căm, răng đánh vào nhau lập cập. Rất nhiều đồng chí hy sinh ngay lúc chưa tiến công vì đạn pháo địch...
Đúng 3 giờ 30 phút sáng, pháo 105 ly của ta gầm lên, trút đạn vào các cứ điểm địch. Các tuyến hỏa lực sử dụng DKZ, đại liên Maxim và súng Bazoka chỉ chờ có thế, bắn tới tấp vào các ụ súng, lô cốt địch. Quân ta bắt đầu tiến công dồn dập đồi Độc Lập. Lợi dụng lúc pháo binh ta bắn cấp tập, các trung đội bộc phá băng lên phá hàng rào.
Lần đầu mở cửa mở, hướng Trung đoàn Tu Vũ xác định cửa mở chưa đúng vì Trung đoàn vừa từ Lào về mới chỉ 3 ngày, vừa trinh sát vừa tổ chức chiến đấu, vừa đào hào giao thông nên địa hình chưa thật nắm chắc. Ngay sau đó, đồng chí Nguyễn Văn Ty phát hiện hướng mở sai đã chỉnh lại. Mình đồng chí Ty đánh 9 quả bộc phá mở hàng rào (đồng chí Nguyễn Văn Ty sau này được phong Anh hùng lực lượng vũ trang, đồng chí hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam).
Trung đoàn 165 đánh hướng Đông Nam tương đối thành công, tiểu đội thọc sâu diệt được trận địa cối 120 ly, đánh chiếm trung tâm thông tin, tiến công bao vây bọn chỉ huy cứ điểm dưới hầm ngầm, chiến sĩ Nguyễn Ngọc Doãn cắm cờ trên nóc sở chỉ huy địch. Tiếp đó, Trung đoàn xông lên tiêu diệt chia cắt từng bộ phận của địch. Trung đoàn 88 sau khi mở được cửa mở, các mũi xung kích lao thẳng vào bên trong cứ điểm bắt liên lạc với Trung đoàn 165 bao vây hầm cố thủ sở chỉ huy địch. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 6 giờ 30 phút ngày 15/3/1954, ta tiêu diệt hoàn toàn trung tâm đề kháng đồi Độc Lập, thu toàn bộ vũ khí. Hơn 300 tên địch ra hàng, trong đó có tên quan tư chỉ huy cứ điểm.
Sáng ra, địch cho 5 xe tăng dẫn 2 tiểu đoàn ứng chiến, gồm 650 tên từ khu trung tâm phản kích. Đại đội 225 của Đại đội trưởng Lê Nam Phong đã chiến đấu vô cùng oanh liệt, pháo binh ta bắn hiệp đồng, sơn pháo của ta bắn thẳng vào xe tăng địch buộc chúng phải tháo chạy. Trong 2 ngày, quân ta tiêu diệt 2 cứ điểm Him Lam và Độc Lập - nơi được mệnh danh là “Pháo đài bất khả xâm phạm” của địch. Mất Độc Lập và Him Lam khiến bọn địch ở Bản Kéo hoang mang lo sợ, chúng phải kéo cờ hàng vào ngày 17/3.
Nhưng đại đội của ông cũng bị thương vong gần hết, chỉ còn hai người nguyên vẹn là ông và đồng chí Đức liên lạc viên. Nhớ lại những ngày ấy, Trung tướng Nam Phong không khỏi bùi ngùi vì sự hy sinh quá lớn của chiến sĩ Điện Biên. Đại đội ông đã phải liên tục bổ sung quân từ tuyến sau lên. Người ngã xuống đã có ngay người khác thay, có người lính ông còn chưa kịp biết tên thì đã hy sinh.
Cạo trọc đầu để hạ quyết tâm chiến đấu
Trước khi vào đợt 2 chiến dịch, Đại đội trưởng Lê Nam Phong đề xuất với anh em: “Bây giờ tất cả cạo trọc đầu hết. Cạo trọc để thề quyết thắng trận này!”.
Trung tướng Lê Nam Phong (1928 - 2022) sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng ở xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 16 tuổi. Sau khi cướp chính quyền ở thành phố Vinh, ông vào Đại đội Đại đao Trung đoàn 57 chiến đấu bảo vệ quê hương. Năm 1948, ông được kết nạp Đảng, được điều ra Việt Bắc học khóa quân sự - chính trị ở Trường Lục quân Liên khu 10. Năm 1949, ông được bổ sung vào Đại đoàn 308. Trước chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Đại đội trưởng Đại đội 213 Tiểu đoàn 23 Trung đoàn 88 Đại đoàn 308, cùng Đại đoàn đánh sang Thượng Lào để nghi binh địch. Từ 1963, ông vào Nam đánh Mỹ với cương vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 3, Sư đoàn 9, sau đó là Sư trưởng Sư đoàn 7 đánh miền Đông Nam Bộ, ông đã chỉ huy Sư đoàn đánh vào dinh Độc Lập.
Mọi người nghe thế thì khoái vô cùng, vì vừa thể hiện quyết tâm chiến đấu, vừa tiện lợi trong sinh hoạt trong khi chiến hào đầy bùn nhão, đất bùn mà dính vào tóc thì ngứa ngáy lắm, mà ở đây làm gì có nước tắm gội. Nói là làm liền, anh này lấy kéo cắt cho anh kia, rồi lấy dao cạo râu cạo nhẵn thín. Chẳng mấy chốc, cả đại đội trọc lốc. Thế là từ đó, Đại đội trưởng Lê Nam Phong có biệt danh “Đại đội trưởng đầu trọc”. Sau này có lần gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng còn nhắc đến biệt danh “Đại đội trưởng đầu trọc” của ông.
Kỷ niệm sâu sắc của ông ở Điện Biên Phủ là những ngày đánh lấn bắn tỉa. Kiểu đánh này trước đó chưa từng xuất hiện trong quân đội ta. Đơn vị ông được giao nhiệm vụ đào cắt sân bay Mường Thanh. Các chiến sĩ sử dụng xẻng thay cho tiểu liên, đào chiến hào lấn sâu dần về phía địch để thực hiện cắt đôi sân bay địch, bóp chết đường tiếp tế của chúng. Địch khi đó chỉ cách ta hơn trăm mét, bên này nhìn thấy bên kia, ta thì dưới giao thông hào, ngoi đầu lên là địch bắn ngay. Sau này ta cũng làm các ụ súng để bắn tỉa lại.
Đơn vị ông còn có giai thoại "chiến sĩ cởi truồng đánh giặc". Đó là câu chuyện về chiến sĩ Phạm Quốc Ân. Chẳng là lần ấy chiến sĩ Phạm Quốc Ân bị đi ỉa chảy nhưng vẫn bám chiến hào căng mắt quan sát địch nên đã quyết định cởi truồng cho tiện, đỡ phải chạy đi chạy lại thay quần áo. Ông Ân là một trong những chiến sĩ bắn tỉa giỏi, hàng chục tên địch đã bị bắn hạ trước “chiến sĩ truổng cời".
Trong những ngày “đánh lấn bắn tỉa", vui nhất là cướp dù tiếp tế của địch. Thằng địch mò ra lấy dù tiếp tế là ta bắn tỉa, đợi đêm xuống, anh em hè nhau bò ra khiêng hàng chiến lợi phẩm về. Thôi thì đủ cả: Bánh quy bơ, thịt hộp, cá hộp, thuốc lá, rau xanh, lại còn cả thư và tiểu thuyết của vợ Đờ Cát gửi cho chồng. Đặc biệt nhất là ta lấy rất nhiều đạn của địch, quý nhất là đạn pháo 105 còn mới "cóng", bắn phát nào nổ phát nấy. Các chiến sĩ bắn tỉa cùng ông ngày ấy như Đức Nam, Linh, Huỳnh, Trường sau này có dịp gặp lại hay kể chuyện những giây phút khó quên trong chiến hào.
Chiều 7/5, khi “Đại đội đầu trọc” thắt chặt vòng vây, cách sở chỉ huy của địch chừng 300m thì các chiến sĩ của Đại đoàn 312 tiến vào Sở chỉ huy bắt sống Đờ Cát. Ông bảo, cảm giác lúc đó sướng lâng lâng, chỉ muốn bay lên, ôm lấy mọi người, bắn hết đạn cho bõ những ngày gian khổ. Một điều thật thú vị là những thằng giặc ra hàng mặt đứa nào đứa nấy tươi tỉnh lắm, có nhiều thằng còn cười, có lẽ chúng thấy sung sướng vì thoát khỏi “địa ngục trần gian” do chính chúng tạo nên.
Đại tá Đoàn Hoài Trung