Tài nguyên nước

Dịch vụ thủy lợi ở Việt Nam: Tiếp cận với cơ chế giá

Nguyễn Thủy - Minh Anh (ghi) 29/02/2024 - 09:23

(TN&MT) - Quản lý hiệu quả dịch vụ thuỷ lợi đã và đang trở thành tâm điểm của việc nâng cao giá trị tài nguyên nước. Để thực hiện, Nhà nước đã ban hành nhiều giải pháp, chính sách quan trọng, đặc biệt là việc chuyển đổi từ cơ chế thủy lợi phí sang cơ chế giá quy định tại Luật Thủy lợi và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, trên thực tế, hàng năm Nhà nước vẫn phải bù lỗ hàng nghìn tỷ. Chính vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung các văn bản, nghị định và pháp luật liên quan để trả nước về giá trị thực đang là vấn đề hết sức cấp bách hiện nay.

Nhà nước vẫn đang hỗ trợ 100% tiền sử dụng dịch vụ công ích thủy lợi

Trước năm 2017, giá sản phẩm, dịch vụ công ích thuỷ lợi được gọi là thủy lợi phí và thực hiện theo quy định tại Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình thủy lợi số 32/2001/PL-UBTVQH10 và các văn bản hướng dẫn.

dich-vu-thuy-loi.jpg
Dịch vụ thủy lợi bền vững và hiệu quả là vô cùng cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài của ngành Nông nghiệp Việt Nam

Kể từ khi Luật Thủy lợi năm 2017 và các văn bản liên quan được ban hành, chính sách giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi được cụ thể hóa trong Nghị định số 96/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết về giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi và hỗ trợ tiền sử dụng sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi (Nghị định 96), đánh dấu một bước ngoặt quan trọng từ cơ chế phí sang cơ chế giá, phù hợp với tình hình ngày càng phát triển của xã hội.

Việc thực hiện cơ chế “giá dịch vụ thủy lợi” đã làm thay đổi nhận thức của xã hội về công tác thủy lợi từ “phục vụ” sang đúng bản chất “dịch vụ”; giúp người sử dụng dịch vụ hiểu rõ bản chất hàng hóa của nước, coi dịch vụ thủy lợi là một dịch vụ đầu vào cho sản xuất, nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm.

Hơn nữa, việc thực hiện cơ chế giá dịch vụ thủy lợi là cơ sở để xóa bỏ cơ chế "xin-cho", nhằm tạo lập sân chơi mới cho các tổ chức, cá nhân cung cấp sản phẩm dịch vụ thủy lợi trong môi trường hoạt động minh bạch, bình đẳng để thu hút, huy động khu vực tư nhân tham gia theo cơ chế thị trường, phù hợp với các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Theo quy định tại Nghị định 96, giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi bao gồm giá sản phẩm, dịch vụ công ích thuỷ lợi (dịch vụ như tưới cho cây trồng, cấp nước cho sản xuất muối, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi; tiêu, thoát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, khu nông thôn và đô thị trừ vùng nội thị; thoát lũ, ngăn triều cường, ngăn mặn, đẩy mặn, rửa mặn, rửa phèn, giữ ngọt) và giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi khác (cấp nước cho sinh hoạt và công nghiệp; tiêu nước cho khu công nghiệp, khu chế suất, khu kinh tế và khu công nghệ cao; kết hợp phát điện; kinh doanh, du lịch và các hoạt động vui chơi giải trí khác; nuôi trồng thủy sản trong các hồ chứa nước, kết hợp giao thông).

Hiện nay, Nhà nước vẫn đang hỗ trợ 100% tiền sử dụng sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi căn cứ theo mức giá sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi do Nhà nước quy định cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp để sản xuất lương thực, trồng rau, màu, mạ, cây công nghiệp dài ngày, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, hoa, cây dược liệu, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi… Còn đối với các đối tượng không được Nhà nước hỗ trợ tiền sử dụng sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi và sử dụng sản phẩm, dịch vụ thủy lợi khác thì phải nộp tiền theo mức giá do Nhà nước quy định.

Sẽ thay đổi giá sử dụng dịch vụ thủy lợi

Theo đại diện Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính), hiện tại, thẩm quyền quyết định giá sản phẩm, dịch vụ thuỷ lợi vẫn đang được thực hiện theo Nghị định 96. Theo đó, Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định giá tối đa sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) quyết định cụ thể giá sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi thuộc phạm vi quản lý. UBND cấp tỉnh quyết định cụ thể sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi thuộc thẩm quyền quản lý sau khi được HĐND cùng cấp thông qua. Thẩm quyền quyết định giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi khác cũng được quy định tương tự như trên.

Tuy nhiên, theo Luật Giá 2023 đã được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2023 và có hiệu lực thi hành từ 1/7/2024 thì thẩm quyền định giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi đã được sửa đổi, bổ sung căn bản so với quy định tại Luật Thủy lợi.

Theo đó, Bộ Tài chính chỉ định giá đối đa khung giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ NN&PTNN, không định giá tối đa khung giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi thuộc thẩm quyền quản lý của các địa phương. UBND cấp tỉnh tự định giá cụ thể sản phẩm dịch vụ thủy lợi thuộc thẩm quyền quản lý của mình.

Do thẩm quyền định giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi đã được sửa đổi bổ sung theo Luật Giá 2023 nên về trình tự định giá dịch vụ thủy lợi cũng cần phải được sửa đổi bổ sung cho phù hợp, gắn với thẩm quyền của các cấp và trách nhiệm phối hợp của các cơ quan liên quan. Ngoài ra, một số nội dung về nguyên tắc, căn cứ và phương pháp định giá tại Luật Giá 2023 đã có sửa đổi bổ sung so với Luật Giá 2012, vì vậy, sắp tới, nội dung quy định chi tiết về giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi và hỗ trợ tiền sử dụng sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi sẽ cần phải được sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn.

Đề xuất giá dịch vụ thủy lợi tại Việt Nam

Thứ trưởng Bộ NN&PTNN Nguyễn Hoàng Hiệp:

7 vấn đề cần quan tâm khi quy định giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi

20210130154420-1.jpg

Nông nghiệp Việt Nam có được thành quả như hôm nay thì đóng góp của hạ tầng nông nghiệp là rất quan trọng. Đầu vào quan trọng của nông nghiệp là “đất” và “nước”. Vì vậy, việc tính đúng, tính đủ giá thủy lợi rất quan trọng. Nếu sử dụng hiệu quả nước, chắc chắn nông nghiệp Việt Nam sẽ ngày càng phát triển tốt hơn, bền vững hơn.

Để tính đúng, tính đủ giá thủy lợi thì việc quy định giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi và các dịch vụ liên quan có 7 vấn đề cần quan tâm.

Một là, quy định về xác định giá minh bạch, cụ thể, rõ ràng, đảm bảo phù hợp với thực tiễn đặc thù của ngành thủy lợi, tránh rủi ro pháp lý cho các đơn vị thực hiện.

Hai là, quy định về lộ trình thực hiện giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi phù hợp với khả năng ngân sách và chính sách phát triển kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ.

Ba là, việc định giá sản phẩm công ích thủy lợi cần đảm bảo không vượt quá dự toán ngân sách Nhà nước giao và tiền dự kiến thu của người dân sử dụng sản phẩm dịch vụ thủy lợi và lộ trình điều chỉnh chi phí khấu hao và bảo trì sao cho hợp lý.

Bốn là, tháo gỡ khó khăn vướng mắc về điều kiện đặt hàng sản phẩm thủy lợi theo Nghị định số 32/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách Nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên phù hợp với tình hình cụ thể.

Năm là, cần có quy định về cơ chế thu bù chi để đảm bảo nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ công trình và an ninh nguồn nước, an toàn hoạt động của các hồ chứa nước, phát triển bền vững của ngành thủy lợi; các quy định cụ thể về việc thu tiền sản phẩm dịch vụ công ích thủy lợi của đối tượng không được hỗ trợ và tiền dự kiến thu của người sử dụng sản phẩm dịch vụ thủy lợi khác.

Sáu là, việc định giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi khác cần đảm bảo phù hợp với với mặt bằng giá thị trường và đảm bảo khả năng thanh toán của người sử dụng sản phẩm dịch vụ khác và điều chỉnh chi phí khấu hao, chi phí bảo trì, mức lợi nhuận phù hợp với chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.

Cuối cùng là tháo gỡ những vướng mắc trong cách xác định giá trong từng tổ chức thủy lợi cơ sở do Nghị định 96 chưa có căn cứ rõ ràng.

Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận:

Cân nhắc xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật giá dịch vụ thủy lợi

144545436-jpg-1701663970-4657-1701664107.jpg

Thủy lợi là vấn đề chuyên ngành đặc thù, trong khi các sản phẩm dịch vụ thủy lợi theo Luật Thủy lợi khá đa dạng, phục vụ đa mục tiêu. Vì vậy, khi xây dựng phương án giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi, các đơn vị gặp nhiều khó khăn đòi hỏi có sự tính toán kỹ lưỡng.

Việc định giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi hiện nay tại Việt Nam được tiếp cận theo phương thức chi phí, bao gồm chi phí quản lý, vận hành, bảo trì, khấu hao… Đây là những vấn đề hiện nay còn nhiều băn khoăn, đặc biệt là việc tính toán sao cho tính đúng, tính đủ các chi phí vào giá dịch vụ thủy lợi.

Để có giá thì một trong những nội dung rất quan trọng là cần có định mức kinh tế kỹ thuật. Định mức kinh tế kỹ thuật là cơ sở để xây dựng phương án giá. Trong khi đó, thẩm quyền ban hành định mức kinh tế kỹ thuật là các bộ, ngành, địa phương. Hiện nay, Bộ Tài chính cùng Bộ NN&PTNN đang cân nhắc, tính toán từ cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật của ngành nông nghiệp, các địa phương.

PGS.TS Lê Văn Chính - Phó Trưởng Khoa Kinh tế và Quản lý, Trường Đại học Thủy Lợi:

Hướng tới đơn giản hóa trong xác định giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi

lvchinh.jpg

Việc sửa đổi Nghị định 96/2018/NĐ-CP cần hướng tới rõ ràng và đơn giản trong phương pháp xác định giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi, đồng thời đảm bảo tính đúng đủ của chi phí trong quản lý vận hành. Cơ chế hỗ trợ tiền sử dụng nước cũng cần được đơn giản hóa, đảm bảo đúng đối tượng và khuyến khích nâng cao hiệu quả quản lý khai thác công trình thủy lợi để giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.

Đối với chính sách thu tiền sử dụng dịch vụ thuỷ lợi, tôi đề xuất các bộ, ngành cần thực hiện theo nguyên tắc người sử dụng dịch vụ thủy lợi phải trả tiền, người cung ứng dịch vụ thuỷ lợi được thu tiền theo giá quy định nhằm góp phần giảm thiểu chính sách hỗ trợ, bao cấp tài chính của nhà nước, nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ thủy lợi và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất và nước.

Còn đối với chính sách hỗ trợ tiền sử dụng sản phẩm dịch vụ công ích thủy lợi, tôi đề xuất hỗ trợ cho các hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc, vùng có điều kiện khó khăn và đặc biệt khó khăn; hộ nghèo theo tiêu chí do Thủ tướng Chính phủ quy định. Cơ chế hỗ trợ gồm: Hỗ trợ trực tiếp cho người sử dụng dịch vụ thủy lợi thay cơ chế hỗ trợ cho các công ty khai thác, cung ứng dịch vụ thủy lợi và bổ sung cơ chế hỗ trợ kinh chí phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn; các nhiệm vụ đã thực hiện tưới, tiêu, thoát nước đối với những diện tích nhất định bị tác động nghiêm trọng của thời tiết; hỗ trợ đối với việc cung ứng nước qua các diện tích bỏ hoang không sản xuất để có nước tới diện tích đất cần cung ứng.

Nguyễn Thủy - Minh Anh (ghi)