Kiến nghị kéo dài thời gian thực hiện Dự án thu hồi đất Cảng hàng không quốc tế Long Thành
Sáng 26/10, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã nghe Tờ trình và thẩm tra Tờ trình của Chính phủ về việc điều chỉnh một số nội dung của Nghị quyết 53/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Cảng hàng không quốc tế Long Thành.
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng đã trình bày Tờ trình về việc điều chỉnh một số nội dung của Nghị quyết 53/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Cảng hàng không quốc tế Long Thành.
Theo Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, triển khai Nghị quyết của Quốc hội về Chủ trương đầu tư Dự án Cảng hàng không quốc tế (Cảng HKQT) Long Thành; nghị quyết về việc tách nội dung thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Dự án Cảng HKQT Long Thành thành Dự án thành phần; Nghị quyết về Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dự án Cảng HKQT Long Thành, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Báo cáo NCKT Dự án tại Quyết định số 1487/QĐ-TTg ngày 6/11/2018.
Trong quá trình triển khai, một số nội dung của Dự án có thay đổi so với chỉ tiêu chủ yếu đã được Quốc hội thông qua tại các Nghị quyết. Vì vậy, Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét, thông qua một số nội dung thay đổi trước khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quy định của Luật Đầu tư công.
Theo đó, các nội dung điều chỉnh gồm: Điều chỉnh giảm tổng mức đầu tư; Điều chỉnh giảm diện tích thu hồi đất; Bổ sung bố trí tái định cư các hộ dân thuộc 02 tuyến giao thông kết nối T1, T2 vào Khu dân cư, tái định cư Lộc An - Bình Sơn không làm tăng tổng mức đầu tư, không tăng diện tích đất thu hồi của Dự án. Do đó, căn cứ quy định tại khoản 3, Điều 43 Luật Đầu tư công, các điều chỉnh này không thuộc trường hợp phải điều chỉnh chủ trương đầu tư và thẩm quyền điều chỉnh là của Thủ tướng Chính phủ.
Theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 94/2015/QH14, Điều 2 Nghị quyết số 38/2017/QH14, Chính phủ báo cáo Quốc hội các nội dung điều chỉnh trước khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Dự án.
Nội dung điều chỉnh thời gian thực hiện Dự án kéo dài thời gian bố trí vốn đến năm 2024 thuộc thẩm quyền của Quốc hội do làm tăng thời gian thực hiện dự án so với một số chỉ tiêu đã được Quốc hội phê duyệt tại khoản 3, Điều 1 Nghị quyết 53/2017/QH14, Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét, thông qua để có cơ sở triển khai thực hiện các công việc tiếp theo.
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải nêu rõ, lý do điều chỉnh kéo dài thời gian thực hiện và bố trí vốn cho Dự án; đồng thời để có cơ sở triển khai thực hiện công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho Dự án, Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét, thông qua: Kéo dài thời gian thực hiện dự án đến hết năm 2024; Kéo dài thời gian giải ngân đối với số vốn thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 và số vốn thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 đến hết ngày 31/12/2024 để tiếp tục bố trí vốn thực hiện, hoàn thành Dự án. Kiến nghị đưa vào Nghị quyết Quốc hội: “Cho phép kéo dài thời gian thực hiện Dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Cảng hàng không quốc tế Long Thành và giải ngân số vốn 2.510,372 tỷ đồng đến hết năm 2024”.
Trình bày báo cáo thẩm tra Tờ trình về điều chỉnh một số nội dung của Nghị quyết số 53/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Cảng hàng không quốc tế Long Thành, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, theo Tờ trình, các nội dung đề nghị điều chỉnh bao gồm: điều chỉnh giảm tổng mức đầu tư Dự án; điều chỉnh diện tích đất thu hồi; điều chỉnh thời gian thực hiện Dự án và kéo dài thời gian giải ngân; bổ sung nội dung về bố trí tái định cư các hộ dân thuộc 02 tuyến giao thông kết nối T1, T2 vào Khu dân cư, tái định cư Lộc An - Bình Sơn. Trong các nội dung đề nghị điều chỉnh như trên, Chính phủ kiến nghị Quốc hội điều chỉnh đối với nội dung về điều chỉnh thời gian thực hiện Dự án và kéo dài thời gian giải ngân vốn với các lý do như đã được phân tích tại Tờ trình.
Ủy ban Kinh tế cho rằng theo quy định tại Điều 35 và khoản 3 Điều 43 của Luật Đầu tư công, việc điều chỉnh các nội dung của Dự án thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, với tính chất đặc thù của Nghị quyết số 53/2017/QH14 và với đề nghị điều chỉnh làm thay đổi nội dung tại Điều 1 của Nghị quyết số 53/2017/QH14, việc Chính phủ trình Quốc hội xem xét, thông qua việc điều chỉnh một số nội dung của Nghị quyết số 53/2017/QH14, trước khi Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt điều chỉnh Dự án là cần thiết nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý cho các cơ quan, đơn vị liên quan triển khai thực hiện Dự án, nhất là đối với việc điều chỉnh về thời gian thực hiện Dự án.
Việc Chính phủ kiến nghị Quốc hội điều chỉnh thời gian thực hiện Dự án và cho phép kéo dài thời gian giải ngân vốn, còn các nội dung đề nghị điều chỉnh khác của Dự án thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ theo quy định tại Luật Đầu tư công vì không làm tăng tổng mức đầu tư Dự án, không tăng diện tích đất thu hồi là phù hợp. Việc xem xét, điều chỉnh thời gian thực hiện Dự án và cho phép kéo dài thời gian giải ngân vốn đề nghị đưa vào Nghị quyết chung của Kỳ họp thứ 6, không ban hành Nghị quyết riêng về điều chỉnh một số nội dung của Nghị quyết số 53/2017/QH14.
Có ý kiến đề nghị Chính phủ cần chủ động và kịp thời báo cáo Quốc hội khi quá trình triển khai Dự án có khả năng không bảo đảm tiến độ và một số chỉ tiêu được nêu tại Nghị quyết của Quốc hội cần phải điều chỉnh để bảo đảm không phát sinh thêm thủ tục, gây lãng phí thời gian và nguồn lực thực hiện Dự án; cần đánh giá nguyên nhân khách quan và chủ quan, rút kinh nghiệm qua triển khai khi để chậm tiến độ Dự án.
Về hồ sơ đề nghị điều chỉnh một số nội dung của Nghị quyết số 53/2017/QH14, Ủy ban Kinh tế cho rằng Hồ sơ đề nghị điều chỉnh một số nội dung của Nghị quyết số 53/2017/QH14 đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ chịu trách nhiệm rà soát toàn diện, bảo đảm căn cứ pháp lý, đơn giá áp dụng, đối chiếu bảo đảm tính thống nhất và tính chính xác của các số liệu giữa Tờ trình và Báo cáo kết quả thẩm định điều chỉnh Dự án.
Về điều chỉnh thời gian thực hiện Dự án, Ủy ban Kinh tế nhất trí với kiến nghị Quốc hội cho phép kéo dài thời gian thực hiện Dự án đến hết năm 2024 nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý để thực hiện hoàn thành các dự án thành phần có cấu phần xây dựng cũng như triển khai công tác giải ngân cho Dự án…
Về kéo dài thời gian giải ngân vốn, Ủy ban Kinh tế cho rằng theo quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật Đầu tư công, Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền cho phép kéo dài thời gian thực hiện giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công đến ngày 31/12 năm sau. Theo đó, việc kéo dài thời gian thực hiện số vốn của Dự án tối đa là đến ngày 31/12/2022, đến nay đã hết thời hạn cho phép kéo dài theo quy định của pháp luật về đầu tư công. Đồng thời, theo quy định tại Điều 64 của Luật Ngân sách nhà nước, các khoản dự toán chi, đến hết năm ngân sách, kể cả thời gian chỉnh lý quyết toán ngân sách chưa thực hiện được hoặc chưa chi hết phải hủy bỏ. Do đó, việc trình Quốc hội cho phép kéo dài thời gian giải ngân vốn là cần thiết, tuy nhiên đề nghị Chính phủ cần làm rõ số kinh phí chưa giải ngân hết của năm 2020, 2021 đã được chuyển nguồn hay chưa, có đủ điều kiện để báo cáo Quốc hội cho phép kéo dài phần vốn này đến hết năm 2024 hay không...
Về nội dung đưa vào Nghị quyết chung của Kỳ họp thứ 6, Ủy ban Kinh tế cơ bản tán thành với nội dung kiến nghị của Chính phủ tại Tờ trình số 558/TTr-CP để đưa vào Nghị quyết chung của Kỳ họp thứ 6 như sau: “Cho phép kéo dài thời gian thực hiện Dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Cảng hàng không quốc tế Long Thành và giải ngân số vốn 2.510,372 tỷ đồng (trong đó bao gồm 1.543,623 tỷ đồng thuộc kế hoạch vốn năm 2021 và 966,749 tỷ đồng thuộc kế hoạch vốn năm 2020) đến hết năm 2024”.
Ủy ban Kinh tế sẽ phối hợp với Cơ quan soạn thảo, các cơ quan có liên quan tiếp tục rà soát và hoàn thiện nội dung này để đưa vào Nghị quyết chung của Kỳ họp thứ 6.