Biến đổi khí hậu

Người dân tộc thiểu số tại Sơn La: Vượt lên biến đổi khí hậu

Nguyễn Nga 02/02/2018 19:39

(TN&MT) - Tiếp nhận Dự án "Biến đổi khí hậu và người dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam" do Cơ quan CISU Đan Mạch tài trợ thông qua Tổ chức Phát triển nông nghiệp Đan Mạch - Châu Á (ADDA), Hội Nông dân tỉnh Sơn La đã phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (Pan - nature) tổ chức triển khai thực hiện Dự án từ tháng 7/2014. Sau 3 năm triển khai, tới nay, Dự án đã thu được nhiều kết quả tích cực.

Tiếp nhận Dự án “Biến đổi khí hậu và người dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam” do Cơ quan CISU Đan Mạch tài trợ thông qua Tổ chức Phát triển nông nghiệp Đan Mạch - Châu Á (ADDA), Hội Nông dân tỉnh Sơn La đã phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (Pan- nature) tổ chức triển khai thực hiện Dự án từ tháng 7/2014. Sau 3 năm triển khai, tới nay, Dự án đã thu được nhiều kết quả tích cực.

Ông Cầm Văn Minh, Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Sơn La cho biết: Các vùng được lựa chọn tham gia dự án gồm 5 huyện, 10 xã, phường, gồm: Xã Sặp Vạt - huyện Yên Châu; các xã Chiềng Mai, Hát Lót, Mường Bon - huyện Mai Sơn; xã Tông Cọ, Chiềng Ngàm - huyện Thuận Châu; xã Mường Bú - huyện Mường La; xã Chiềng Xôm, xã Hua La, phường Chiềng Sinh - thành phố Sơn La.

dsc-4411.jpg
Những kiến thức được đúc kết trong dân gian từ nghìn đời nay vẫn luôn giúp đồng bào vùng cao chống chọi với thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu để lao động sản xuất, vượt qua khó khăn, cải thiện cuộc sống 

Qua việc điều tra thực trạng canh tác nông nghiệp trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện tại đã bộc lộ nhiều nhược điểm tác động xấu tới môi trường như: sử dụng quá nhiều phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật cho lúa; lạm dụng các loại thuốc trừ cỏ và canh tác bằng hình thức cày cuốc trên đất dốc trong trồng ngô; cơ cấu cây trồng phân bổ theo không gian chưa hợp lý, canh tác chủ yếu độc canh, ít luân canh xen vụ; phân hữu cơ gần như không còn được sử dụng. Từ các vấn đề trên, dự án đã tìm kiếm và đề xuất 4 mô hình canh tác bền vững, giảm thiểu và thích ứng với BĐKH tại địa phương, gồm: Mô hình canh tác lúa cải tiến SRI, mô hình canh tác ngô bền vững trên đất dốc, mô hình ủ phân hữu cơ và mô hình trồng nấm.

Qua 3 năm triển khai dự án, đã thành lập và đào tạo cho trên 500 nông dân về kỹ thuật ủ phân hữu cơ, kỹ thuật trồng nấm, kỹ thuật trồng ngô, trồng lúa. Trong đó, 25 lớp/25 mô hình lúa cải tiến (SRI); 5 lớp/5 mô hình trồng ngô bền vững trên đất dốc (nông lâm kết hợp); 4 lớp/4 mô hình trồng nấm; 16 lớp/16 mô hình ủ phân hữu cơ.

anh-1.jpg
Trúc sào đóng góp vào bảo vệ môi trường sinh thái nhờ làm tăng độ che phủ rừng, giữ đất, giữ nước

Thông qua các lớp tập huấn, người dân đã được truyền đạt kiến thức lý thuyết trên lớp, đồng thời, được hướng dẫn ngoài đồng ruộng và thực hành trực tiếp trên cây lúa, cây ngô... Các tập huấn viên đã tổ chức hỗ trợ kỹ thuật theo phương pháp “cầm tay chỉ việc” từ giai đoạn làm đất, chọn giống, cách ngâm ủ, đến các biện pháp chăm sóc phòng trừ sâu bệnh cho tới khi thu hoạch.
Trong quá trình thực hiện, các mô hình đều được Ban Quản lý Dự án tổ chức hội thảo đầu bờ để đánh giá, phân tích kết quả, hiệu quả của từng mô hình. Đây cũng là một cách tuyên truyền để nhân rộng mô hình rất hiệu quả. Theo đánh giá tại các hội thảo đầu bờ, về cơ bản các nhóm đã triển khai thực hiện mô hình theo đúng quy trình hướng dẫn, mang lại hiệu quả tích cực về kinh tế và bảo vệ môi trường.

Kết thúc Dự án đã đào tạo được 10 giảng viên địa phương và thành lập, tập huấn được 50 lớp nhóm nông dân sở thích. Tất cả các tập huấn viên là người địa phương đều nói được từ hai thứ tiếng dân tộc trở lên. Việc tạo ra một mạng lưới tập huấn viên nông dân là một trong kết quả quan trọng của dự án và được chính những người hưởng lợi trực tiếp là người dân tộc đánh giá cao. 100% thành viên nhóm nông dân tham gia, bày tỏ thái độ rất hài lòng với tập huấn viên do dự án đào tạo.

Nguyễn Nga