Quản lý tài nguyên nước bền vững từ quy hoạch các lưu vực sông - Lộ trình tiến tới hạch toán tài nguyên nước
Tài nguyên nước - Ngày đăng : 12:29, 06/04/2023
Điều phối nguồn nước phục vụ đa mục tiêu
Theo PGS.TS Đào Trọng Tứ - Giám đốc Trung tâm Phát triển bền vững tài nguyên nước và thích nghi biến đổi khí hậu, Trưởng ban điều hành Mạng lưới sông ngòi Việt Nam, sự phát triển bền vững của đất nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố, một trong những yếu tố đó là bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia. Thực trạng sử dụng tài nguyên nước trong những năm qua đang đặt ra những vấn đề lớn cho công tác quản lý tài nguyên nước Việt Nam.
Một trong những nguyên tắc quản lý tài nguyên nước đã được quy định trong dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) là: “Việc quản lý tài nguyên nước phải bảo đảm thống nhất theo lưu vực sông, theo nguồn nước, kết hợp với quản lý theo địa bàn hành chính” (Khoản 1, Điều 3) và “Tài nguyên nước phải được quản lý tổng hợp, thống nhất về số lượng và chất lượng nước; giữa nước mặt và dưới đất; nước trên đất liền và nước vùng cửa sông, nội thủy, lãnh hải; giữa thượng lưu và hạ lưu, kết hợp với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác” (Khoản 2, Điều 3).
PGS.TS Đào Trọng Tứ nhấn mạnh, tài nguyên nước là thiết yếu cho sự sống và sức khỏe của tất cả mọi người, cho phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước, khác với các dạng tài nguyên khác, tài nguyên nước trên một lưu vực sông không thể bị chia cắt theo ranh giới hành chính. Từ thực trạng quản lý tài nguyên nước thế giới và ở Việt Nam cho thấy, quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông một cách có hiệu quả là cách tiếp cận phù hợp với điều kiện phát triển hiện tại của Việt Nam. Cách tiếp cận tổng hợp trong quản lý tài nguyên nước giúp quản lý và phát triển tài nguyên nước một cách bền vững, cân bằng và xem xét toàn diện các lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường.
Cách tiếp cận này cũng nhìn nhận các nhóm lợi ích, các ngành kinh tế sử dụng và khai thác nguồn nước, các nhu cầu của môi trường và các xung đột khác nhau. Đồng thời, giúp điều phối công tác quản lý tài nguyên nước giữa các ngành và các nhóm lợi ích ở các quy mô khác nhau, từ quy mô địa phương đến quốc tế. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước nhấn mạnh đến sự liên quan của các quá trình xây dựng luật và xây dựng các chính sách quốc gia, thiết lập cách quản trị tốt và hỗ trợ sắp xếp thể chế và điều hành hiệu quả trong một quy trình nhằm tạo ra các quyết định công bằng và bền vững hơn thông qua sử dụng một loạt các công cụ, như đánh giá xã hội và môi trường, các công cụ kinh tế và các hệ thống giám sát và cung cấp thông tin.
PGS.TS Đào Trọng Tứ cũng lưu ý, tiếp cận quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông đã được xác lập và áp dụng trong thực tiễn của nhiều nước trên thế giới. Quản lý tài nguyên nước theo lưu vực sông ở Việt Nam cũng đã được thể chế hóa với việc ban hành Nghị định về Quản lý lưu vực sông (Nghị định 120/NĐ-CP, 2008) nay đã hết hiệu lực thi hành. Do đó, cách tiếp cận này cần được thực thi và tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới.
Đề xuất hạch toán tài nguyên nước theo các lưu vực sông
Đồng tình với PGS.TS Đào Trọng Tứ, PGS.TS Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường cho rằng, quan điểm quản lý tổng hợp, toàn diện tài nguyên nước đã được luật hóa và được quy định trong Luật Tài nguyên nước số 17/2012/QH13 và Dự thảo Luật Tài nguyên nước sửa đổi.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc đảm bảo nguyên tắc này còn tồn tại rất nhiều bất cập hạn chế về tổ chức và chính sách liên quan. Đặc biệt, hệ thống thông tin, dữ liệu, số liệu điều tra, đánh giá, quan trắc tài nguyên nước còn phân tán và chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý tài nguyên nước, nhất là phục vụ công tác chỉ đạo điều hành, công tác dự báo, thẩm định hồ sơ cấp phép ở cả cấp trung ương và địa phương.
Lưu ý hệ quả thực tế về cạn kiệt, suy thoái, ô nhiễm và xung đột tài nguyên nước ngày càng gia tăng trên các lưu vực sông, PGS.TS Nguyễn Đình Thọ khẳng định, với hệ thống phương pháp luận rõ ràng được Liên hợp quốc phát triển và áp dụng ngày càng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, việc bổ sung quy định về hạch toán tài nguyên nước vào Luật Tài nguyên nước là hoàn toàn phù hợp để giúp đo lường, tính toán và đưa ra các chỉ số phản ánh toàn diện các khía cạnh liên quan đến hiện trạng, xu hướng, áp lực do các hoạt động kinh tế, dân sinh.
“Việt Nam có thể xây dựng hệ thống tài khoản hạch toán tài nguyên nước theo các lưu vực sông, theo đó, mỗi lưu vực sông lớn có thể thiết lập một bộ tài khoản để hỗ trợ việc quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông, xem xét đa giá trị của tài nguyên nước cho phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường và đồng thời thiết lập lộ trình tiến tới hạch toán tài nguyên nước trên phạm vi toàn quốc...” - PGS.TS Nguyễn Đình Thọ đề xuất.