Nhiều chính sách đất đai góp phần xóa đói giảm nghèo

Đất đai - Ngày đăng : 11:14, 20/02/2023

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo trong đó, có nhiều chính sách về đất đai hỗ trợ về đất ở, đất sản xuất để từng bước cải thiện và nâng cao điều kiện sống cho hộ dân tộc đồng bào thiểu số, hộ nghèo, qua đó góp phần vào công cuộc xóa đói – giảm nghèo.

Cụ thể, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 110 Luật Đất đai năm 2013: Việc miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất được thực hiện trong các trường hợp sau đây: Sử dụng đất để thực hiện chính sách nhà ở, đất ở đối với người có công với cách mạng, hộ gia đình nghèo; hộ gia đình, cá nhân là dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, hải đảo; sử dụng đất để xây dựng nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở; đất ở cho người phải di dời khi Nhà nước thu hồi đất do có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.

g3.jpg
Nhà nước đã nhiều chính sách về miễn giảm tiền sử dụng đất cho ĐBDTTS, hộ nghèo (Ảnh: Thanh Hoa) 

Để quy định cụ thể chính sách, này tại Khoản 1, Khoản 2, Điều 11; Khoản 1, Điều 12 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định miễn tiền sử dụng đất trong những trường hợp: Miễn tiền sử dụng đất trong hạn mức giao đất ở khi sử dụng đất để thực hiện chính sách nhà ở, đất ở đối với người có công với cách mạng thuộc đối tượng được miễn tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về người có công; hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, hải đảo; sử dụng đất để xây dựng nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở; nhà ở cho người phải di dời do thiên tai.

Đồng thời, quy định, việc xác định hộ nghèo theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; việc xác định hộ gia đình hoặc cá nhân là đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định của Chính phủ.

g2.png
Chính phủ đã quy định giảm tiền sử dụng đất cho hộ gia đình là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo (Ảnh: Phạm Minh)

Nghị định cũng quy định, miễn tiền sử dụng đất trong hạn mức giao đất ở khi cấp Giấy chứng nhận lần đầu đối với đất do chuyển mục đích sử dụng từ đất không phải là đất ở sang đất ở do tách hộ đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi theo Danh mục các xã đặc biệt khó khăn do Thủ tướng Chính phủ quy định.

Về giảm tiền sử dụng đất, Nghị định quy định giảm 50% tiền sử dụng đất trong hạn mức đất ở đối với hộ gia đình là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo tại các địa bàn không thuộc phạm vi quy định tại Khoản 2, Điều 11 Nghị định này khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất; công nhận (cấp GCN) quyền sử dụng đất lần đầu đối với đất đang sử dụng hoặc khi được chuyển mục đích sử dụng từ đất không phải là đất ở sang đất ở. Việc xác định hộ nghèo theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; việc xác định hộ gia đình hoặc cá nhân là đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định của Chính phủ".

Căn cứ quy định này, thì pháp luật về thu tiền sử dụng đất đã có quy định về việc miễn, giảm tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số (trong đó có công nhân, người lao động nếu là hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định); miễn tiền sử dụng đất để xây dựng nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở.

Bên cạnh đó, tại Điều 27 Luật Đất đai năm 2013 đã quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước về đất ở, đất sản xuất nông nghiệp đối với đồng bào DTTS phù hợp với phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng, đồng thời có chính sách tạo điều kiện cho đồng bào DTTS trực tiếp sản xuất nông nghiệp có đất để sản xuất.

g1(1).jpg
Nhờ các chính sách đã giúp nhiều hộ ĐBDTTS, hộ nghèo thoát nghèo (Ảnh: Phạm Minh)

Luật cũng quy định đối với quỹ đất thu hồi của các tổ chức đang sử dụng đất nông nghiệp sẽ được ưu tiên để giao đất, cho thuê đất đối với hộ gia đình, cá nhân là DTTS không có đất hoặc thiếu đất sản xuất. Quy định về điều kiện chuyển nhượng, tặng cho đối với hộ gia đình, cá nhân là người DTTS sử dụng đất do Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

Tại Thông tư 02/2022/TT-UBDT do Ủy ban Dân tộc vừa ban hành có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/8/2022 đã hướng dẫn thực hiện một số dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I từ năm 2021-2025.

Trong đó, về hỗ trợ đất ở, đối tượng hỗ trợ hộ trợ gồm hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo sinh sống trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN); hộ nghèo dân tộc Kinh sinh sống ở xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK), thôn ĐBKK vùng đồng bào DTTS&MN chưa có đất ở. Không hỗ trợ đất ở đối với các hộ đã nhận hỗ trợ đất ở từ các chương trình, chính sách trước đây nhưng đến nay đã chuyển nhượng, cho, tặng.

Nội dung hỗ trợ và cách thức thực hiện, căn cứ quỹ đất, hạn mức giao đất ở và khả năng ngân sách của từng địa phương, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xem xét ban hành các quy định cụ thể làm cơ sở giao đất ở để làm nhà ở cho các hộ thuộc đối tượng thụ hưởng chính sách theo quy định, đảm bảo phù hợp với điều kiện, tập quán ở địa phương và phù hợp với pháp luật về đất đai. Việc giao đất ở phải gắn phương án làm nhà ở trên diện tích đất được giao, tránh tình trạng các hộ được giao đất ở nhưng lại không có nhà ở.

Ở những nơi cần khai hoang, tạo mặt bằng chính quyền địa phương có thể sử dụng số tiền hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để san gạt, tạo mặt bằng, làm hạ tầng kỹ thuật để giao đất ở cho các đối tượng được thụ hưởng.

Ở các địa phương không có điều kiện về đất đai, chính quyền địa phương bố trí kinh phí hỗ trợ cho người dân tự ổn định chỗ ở theo hình thức xen ghép. Trường hợp các đối tượng thụ hưởng tự chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì UBND cấp xã, phường, thị trấn kiểm tra, xác định cụ thể và lập danh sách trình UBND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phê duyệt hỗ trợ đồng thời hướng dẫn các hộ thuộc đối tượng thụ hưởng chính sách thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.

T. Nhi