Thích ứng biến đổi khí hậu để tạo điều kiện tăng trưởng bền vững

Biến đổi khí hậu - Ngày đăng : 11:23, 22/11/2022

(TN&MT) - Báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2022 chỉ ra, biến đổi khí hậu (BĐKH) sẽ là một trong các tác nhân làm giảm tăng trưởng của Việt Nam. Nếu không có các giải pháp thích ứng hiệu quả, thiệt hại kinh tế sẽ vào khoảng 4,3 tỷ USD trong 10 năm tới. Nếu nước biển dâng và nhiệt độ tăng lên theo kịch bản xấu nhất, ước tính đến năm 2050, Việt Nam có khoảng 3,1 triệu người phải di cư nội địa.

Tại Hội nghị COP 27 vừa diễn ra tại Ai Cập, Đoàn Việt Nam đã gửi NDC cập nhật đến Ban Thư ký Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu. Báo cáo cho thấy nỗ lực của Việt Nam cả về thích ứng BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Đặc biệt, nhấn mạnh những tổn thất và thiệt hại do BĐKH gây ra và dự báo tác động trong tương lai.

Việt Nam chịu tác động nặng nề từ BĐKH

Theo NDC 2022, với dải ven biển có chiều dài 3.260km và các vùng biển hải đảo, Việt Nam sẽ chịu nhiều rủi ro, tác động tiềm tàng liên quan đến BĐKH và nước biển dâng. Rủi ro sẽ gia tăng đối với các vùng đồng bằng và ven biển, đặc biệt là các đô thị ven biển do mật độ dân cư cao, quy hoạch đô thị/không gian chưa tính đến tác động của BĐKH.

Trong giai đoạn 2011 - 2020, khí hậu cực đoan đã gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế. Thiệt hại trực tiếp đối với tài sản công và tư khoảng 2,4 tỷ USD/năm (tương đương 0,8% GDP) do các hiện tượng thời tiết cực đoan. Hơn nữa, nếu tính theo chi phí suy thoái môi trường nói chung, thiệt hại do BĐKH được ước tính khoảng 10 tỷ USD vào năm 2020, tương đương 3,2% GDP.

2.png
Thiệt hại do thiên tai tại Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2022. Đồ họa: Tổng cục Phòng chống thiên tai

Cũng trong khoảng thời gian này, thiên tai đã khiến 2.153 người tử vong, 316 người mất tích và 4.117 người bị thương. Các tổn thất sau thiên tai còn bao gồm dịch bệnh do nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm, vấn đề sức khỏe tinh thần do sang chấn tâm lý và lo âu, căng thẳng. BĐKH cũng là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tình trạng di cư và khiến hàng chục ngàn hộ gia đình buộc phải di dời chỗ ở vĩnh viễn, gây nguy cơ mất bản sắc văn hóa và tri thức địa phương.

Theo đánh giá trên cơ sở mức độ phơi bày trước BĐKH, khu vực miền núi phía Bắc và miền Trung chịu nhiều rủi ro do lũ quét và sạt lở đất. Vùng duyên hải Trung Bộ và Nam Trung Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, các vùng trung du và Tây Nguyên chịu rủi ro do hạn hán, thiếu nước và gia tăng hoang mạc hoá. Đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ bị ngập do nước biển dâng, sụt lún đất và xâm nhập mặn.

Nhóm người nghèo, dân tộc thiểu số, những người có sinh kế phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em, người bị bệnh tật là các nhóm có mức tổn thương cao nhất do biến đổi khí hậu.

Các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao là nông nghiệp, đa dạng sinh học, tài nguyên nước, sức khỏe cộng đồng, nhà ở và hạ tầng kỹ thuật do có mức độ phơi bày và mức độ nhạy cảm cao với thiên tai, khí hậu cực đoan. Biến đổi khí hậu là nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra tại một số nơi có thể làm đảo ngược những thành tựu đã đạt được trong thời gian dài – Báo cáo đưa ra nhận định.

Sự gia tăng tần suất và cường độ các hiện tượng thời tiết cực đoan dẫn đến gia tăng rủi ro cho các vùng, các lĩnh vực và người dân. Do tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, nguy cơ ngập dẫn đến mất đất canh tác nông nghiệp, nước tưới cho nông nghiệp, nước cấp cho sinh hoạt và công nghiệp bị nhiễm mặn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân.

Cảnh báo tương tổn thất và thiệt hại trong tương lai

Tương ứng với mức nhiệt độ tăng 1oC và 1,5oC, các chuyên gia cảnh báo, nền kinh tế Việt Nam có thể chịu tổn thất lần lượt chiếm khoảng 1,8% GDP và 4,5% GDP, tập trung vào những khu vực, lĩnh vực có mức độ rủi ro thiên tai lớn.

Nếu nước biển dâng và nhiệt độ tăng lên theo kịch bản xấu nhất, ước tính đến năm 2050, Việt Nam có khoảng 3,1 triệu người phải di cư nội địa. Mức độ rủi ro do lũ lụt của khu vực đô thị dự kiến sẽ tăng lên 7%. Ước tính tổn thất về nhà cửa do bão, lũ lụt liên quan đến biến đổi khí hậu ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2050 là 2,1 tỷ USD, gia tăng 11% so với hiện tại.

Ngoài những thiệt hại về kinh tế xác định được, Việt Nam còn có nguy cơ cao chịu thiệt hại phi kinh tế như thiệt hại về người và suy giảm sức khỏe người dân, cộng đồng hoặc chi phí cơ hội khi khu kinh tế bị di dời, mất đất do xói lở, mất di sản văn hóa và kiến thức địa phương, mất đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái.

Năng suất lúa và ngô của Việt Nam có thể giảm lần lượt là 8,8% và 18,7% vào năm 2030 và 15,1% và 32,9% vào năm 2050. Nếu nước biển dâng 100cm, 32,2% diện tích đất nông nghiệp có nguy cơ bị ngập. Theo kịch bản biến đổi khí hậu, nếu năng suất và diện tích trồng lúa được giữ nguyên, Việt Nam có nguy cơ mất 21,4% sản lượng lúa vào năm 2100.

Trong khí đó, mực nước biển dâng 100 cm cũng sẽ khiến hầu hết các khu công nghiệp ven biển của Việt Nam bị ngập từ 10% - 67% diện tích.

Nỗ lực thích ứng của Việt Nam

Tại Việt Nam, trong nhiều năm qua, nội dung thích ứng BĐKH luôn song hành với giảm phát thải khí nhà kính trong các chủ trương, chính sách, chiến lược, chương trình, kế hoạch về biến đổi khí hậu và thực hiện các cam kết quốc tế của Đảng, Chính phủ. Các văn bản mới đây nhất là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021); Luật Bảo vệ môi trường (2022); Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 (2022); Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (2022); Hệ thống giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu cấp quốc gia (2022)… Cụ thể hóa các chủ trương, chính sách này, các Bộ, ngành, địa phương đã tiếp tục ban hành các kế hoạch hành động ứng phó BĐKH, tăng trưởng xanh, thực hiện Thỏa thuận Paris và lồng ghép trong lộ trình phát triển kinh tế xã hội giai đoạn tới.

Các chương trình, dự án thích ứng với biến đổi khí hậu tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực giúp tăng khả năng phòng chống từ xa, tăng sức chống chịu trước thiên tai như: Giám sát khí hậu, cảnh báo sớm thiên tai; ứng phó với thiên tai, chống ngập cho các thành phố lớn, củng cố đê sông, đê biển và an toàn hồ chứa; bảo đảm an ninh lương thực, an ninh nước; xây dựng cộng đồng thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; bảo vệ, phát triển bền vững rừng và bảo tồn đa dạng sinh học.

21-12-21-cong-cai-lon.jpg
Toàn cảnh siêu công trình cống Cái Lớn chắn ngang sông Cái Lớn, thuộc huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang - công trình điều tiết nguồn nước thích ứng biến đổi khí hậu của Đồng bằng sông Cửu Long

Báo cáo cũng khẳng định, Việt Nam đã đạt được những bước tiến trong việc huy động đầu tư cho thích ứng với BĐKH, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế song song với bảo vệ tài nguyên và môi trường. Điều này thể hiện qua tỷ trọng nguồn vốn trong nước cao hơn nguồn ODA, bên cạnh đó, nguồn tài chính tư khu vực tư nhân có xu hướng tăng dần trong thời gian qua.

NDC 2022 đưa ra cụ thể những thiếu hụt trong lĩnh vực thích ứng hiện nay và xác định mục tiêu thích ứng trong thời gian tới. Đó là: Giảm thiểu mức độ dễ bị tổn thương và rủi ro trước tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu thông qua nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, giảm thiểu tổn thất và thiệt hại do thiên tai, khí hậu cực đoan gia tăng và nước biển dâng do biến đổi khí hậu; thúc đẩy lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào các chiến lược, quy hoạch.

Đóng góp về thích ứng với biến đổi khí hậu trong NDC của Việt Nam được chi tiết và cụ thể hóa trong Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu (NAP). Kế hoạch sẽ triển khai trong trung hạn và dài hạn với sự tham gia của các bên liên quan để thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu. Nếu đạt được các mục tiêu, thích ứng sẽ tạo điều kiện tiên quyết để bảo đảm ổn định xã hội và phát triển kinh tế; từ đó mới có thể thực hiện giảm phát thải nhiều hơn. Việc thực hiện các hành động ứng phó với biến đổi khí hậu trong NDC 2022 cũng sẽ góp phần để Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc.

Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) là văn bản thể hiện trách nhiệm của quốc gia trong thực hiện Thỏa thuận Paris – văn bản pháp lý toàn cầu quy định trách nhiệm của tất cả các Bên trong ứng phó biến đổi khí hậu. Việt Nam đã đệ trình Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định (INDC) vào năm 2015 và tiến hành rà soát, cập nhật NDC lần 1 vào năm 2020.

Bản NDC cập nhật năm 2022 của Việt Nam được thực hiện trên cơ sở NDC 2020 và bổ sung những điểm mới, nỗ lực của Việt Nam thực hiện cam kết đã đưa ra tại Hội nghị COP26 cả về thích ứng và giảm nhẹ.

Khánh Ly