Một thứ ánh sáng chậm trong thơ
Văn hóa - Ngày đăng : 22:16, 31/10/2022
Phàm đã là người sáng tác, quan trọng bậc nhất vẫn là đi và viết. Nói rốt ráo hơn là đi để viết. Ở đây, đi chính là để “nạp” cảm xúc và “nạp” trải nghiệm; còn viết là phần thể hiện bằng văn bản như một đòi hỏi tự thân. Trong đó, cảm xúc có tác dụng làm gia tăng chất xúc tác, còn trải nghiệm làm tăng sự tích lũy,... Riêng trải nghiệm là của từng người, thuộc về từng người, làm nên cái khác, cái độc đáo của từng người. Trên thế giới, người ta xếp sự hiểu biết qua việc đọc sách chỉ là “tri thức hạng hai”, còn sự hiểu biết qua trải nghiệm cá nhân mới là “tri thức hạng nhất”. Bởi sự đọc sách thuộc về số đông, còn sự trải nghiệm thuộc về số ít, đơn lẻ.
Ai cũng nhìn trăng, ngắm trăng và thấy trăng rất gần gũi, quen thuộc. Ai cũng thấy trăng thật đẹp, thật hấp dẫn trên bầu trời về ban đêm, nhất là vào đêm sáng trăng. Thế nhưng chỉ có Rítxốt - nhà thơ Hy Lạp lúc sinh thời nhận ra trăng của riêng ông qua con mắt của ông và sự trải nghiệm của ông thật khác người. Chính vì thế mà Rítxốt mới sở hữu hai câu thơ độc đáo lạ thường: Kìa vầng trăng trên trời/ Trông như lỗ thủng vậy.
Theo cách nói của dân gian thì “đi” là “đổi gió”, là làm thay đổi không khí, môi trường sống. Và sự “đổi gió”, thường bao giờ cũng đem lại sự thay đổi, tươi mới, giúp ta sống với hiện tại này và đời sống này đến từng khoảnh khắc, chiều sâu.
Đọc “Vang âm tiếng sóng”, tôi ngộ ra: Chính vì đi nhiều, trải nghiệm nhiều nên gia tài sáng tác của nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh khá giàu có, cơ bản là các tác phẩm báo chí và thơ. Chỉ trong khoảng hai năm trở lại đây, những bài thơ mới sáng tác của ông đã đủ để in thành một tập thơ đầy đặn.
Bên cạnh đi nhiều, trải nghiệm nhiều, chỗ dựa của thơ ông chính là niềm tin và lòng yêu thương con người. Sự trải nghiệm và tình yêu thương trong ông đủ lớn để những xúc cảm bật thành thơ, như một sự giải thoát qua quá trình ghìm nén, chắt lọc cảm xúc. Nói không quá, chỗ dựa này đã trở thành động lực mang tính thường hằng để Nguyễn Hồng Vinh cầm bút viết. Và vì thế, ông đặt tên tập thơ thứ 11 này là VANG ÂM TIẾNG SÓNG: Sóng của quê hương, đất nước; sóng của tình yêu con người, tình yêu đôi lứa… luôn vang trong trái tim ông, để từ đó, những tứ thơ bật mầm, có bài thơ dung dị mà lắng sâu, có bài mang tính triết luận, có bài hầu như là diễn tả cái thường nhật của đời sống. Và dù ở dạng thức nào, với mức độ đậm nhạt khác nhau trong bạn đọc và công chúng yêu thơ, nhưng, thơ ông đều có sức cuốn hút và gây dấu ấn.
Với riêng tôi, tôi có cảm giác, nhờ “đi nhiều”, “thương và tin yêu con người” nên thơ Nguyễn Hồng Vinh càng có tầm khái quát và ôm trùm hơn. Những bài thơ: “Tổ quốc thiêng liêng”, “Tiếng sóng quê hương”, “Nhớ nắng miệt vườn”, “Một thoáng Cần Thơ”, “Ba Lòng vẽ lại dung nhan”, “Hoa mộc miên giữa đá”, “Sức hút Việt Nam”… đã thực chứng điều đó. Trong “Tổ quốc thiêng liêng”, ông gắn “người người lớp lớp” với “Tiến quân ca”: “Ngày đầu tuần, người người lớp lớp/ Hát “Tiến quân ca” trào dâng lồng ngực”. Trong “Tiếng sóng quê hương”, ông gắn mình với quê hương bản quán: “Dù ở chân trời góc bể/ Vẫn canh cánh nhớ cội nguồn có nhúm rau chôn đất”. Trong “Khắc khoải Sài Gòn”, ông nhắc nhở mọi người: Cuộc đời không có gì phải sợ, “chỉ sợ lòng người tự tạo bão giông…”.
“Vang âm tiếng sóng” có nhiều bài thơ tình ấn tượng, cho thấy sự say cháy và bừng rộ nhờ lối viết, cách triển khai rất riêng, tạo nên phong cách thơ Hồng Vinh. Chất ngẫm cảm, liên tưởng cũng được đẩy lên ở mức cao.
Đây là ví dụ thứ nhất:
Em rót vào anh tràn ly rượu
Hai ta lên xuống giữa trời mây
Sóng như tung lên rồi nhấn xuống
Con thuyền cứ thế ngả nghiêng say
(Tình say)
Ví dụ thứ hai:
Ngỡ em nhả tơ từ kiếp trước
Để anh ám ảnh một kiếp tằm
Kìa sông chảy xuôi, cá lội ngược
Đôi mình như mắc lưới tình duyên
(Nhả tơ)
Ví dụ thứ ba:
Hoa sưa trắng nỗi niềm xưa
Sáng - trưa - chiều - tối... đón đưa em về
Hoa sưa bừng nở, còn nghe
Tiếng chim líu ríu đầu hè... nhắc ai?
(Hoa sưa)
“Nhớ cà phê phố” là ví dụ thứ tư.
Đây là một bài thơ viết như “bắt được” vậy. Chính sự thiếu vắng, nói cụ thể là sự “thiếu em”, cùng những tiếc nuối, ngậm ngùi đã trở thành hồn cốt căn cơ của tứ thơ:
Phố xa
Anh ngóng đợi từng phút
Cà phê nhỏ giọt
Em xa hút...
Từ ngày trở về
Anh lẻ bóng
Nuối tiếc ngày xưa trong cõi lặng
Giá kim đồng hồ quay ngược
Em ơi!
Rõ ràng, người xưa thì chưa thấy, nhưng ngày xưa và những kỷ niệm xưa thì vẫn còn. Và nói theo Lý Bạch thì “Người” có thể “không bao giờ về” nhưng “Hương” tình yêu thì “không bao giờ mất”.
Tất nhiên, không chỉ có “Nhớ cà phê phố” mà cả “Hoa sưa” và “Nhả tơ” cũng không hề kém cạnh. Một “Hoa sưa” với “Hoa sưa trắng nỗi niềm xưa”, thật đáng nhớ. Một “Nhả tơ” với “Ngỡ em nhả tơ từ kiếp trước/ Để anh ám ảnh một kiếp tằm” để rồi anh và em “như mắc lưới tình duyên”, thật đáng nhớ!...
Còn những câu: “Cỏ sinh để mà xanh/ Héo vàng để thêm mượt lá” (Cỏ và anh), “Gói cả niềm yêu vào vạt áo” (Không biết gì), “Gió chiều phơ phất triền đê/ Còn đây vạt cỏ thầm thì hôm nao/ Đời người như giấc chiêm bao...” (Gặp lại) là những đơn vị thơ, chi tiết thơ đáng chú ý. Nên nhớ, trong thơ, đơn vị thơ, chi tiết thơ là rất cần thiết và là điểm nhấn cho mỗi bài thơ. Không có các chi tiết thơ, các đơn vị thơ, bài thơ không “đứng” được. Nói cách khác: Sở dĩ một bài thơ sống được trong lòng độc giả là nhờ các đơn vị thơ, các chi tiết thơ. Nhiều khi chúng như là những cái đinh “đóng” vào trí nhớ người đọc. Riêng “Khép - mở”, theo tôi là một tứ thơ lạ với nhiều ẩn ý hiện ra sau những khoảng mờ của chữ và nghĩa ở đằng sau hai câu hỏi không dễ trả lời:
Sân khấu đã sáng đèn
Sao nhìn không rõ mặt?
Cửa sông Hàn mênh mông
Mà hồn thơ lại khép?!
Hoặc ở đoạn kết bài “Tản mạn bên trong” gợi cho người đọc rất nhiều suy ngẫm về nhân tình thế thái trong thời cơ chế thị trường:
Mong là con người đích thực
Hãy BUÔNG tham vọng
Để đón nhận
Cái ta có thể trở thành
Đến với thơ có phần muộn màng. Nhưng dường như, để bù lại phần muộn màng ấy, mỗi khi có thể, ông cần mẫn viết, say sưa viết. Trong khoảng 12 năm (từ 2010 đến nay), nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh đã in trên 10 tập thơ với xấp xỉ cả nghìn bài. Chỉ riêng số lượng thôi, đối với một người làm thơ cận kề tuổi bát thập, đã là đáng kể và đáng nể. Bằng sự bền bỉ và bứt phá theo cách của mình, thơ Nguyễn Hồng Vinh được ví như một thứ ánh sáng chậm.
Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến bài thơ “Ánh sáng chậm” của nhà thơ Bungari Bôgiđa Bôgilốp. Xin được trích bốn câu thơ dưới đây để khép lại bài viết này:
Các nhà thơ đến với đời chầm chậm
Ở trên ta như thể một vầng trăng
Một mặt trăng có lẽ đã chảy tan trong bóng tối của đêm
Để lại phía sau mây một vầng rạng sáng.
Phố Khuất Duy Tiến, đêm 27/9/2022