Ngành Địa chất Việt Nam đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước

Khoáng sản - Ngày đăng : 18:16, 02/10/2022

(TN&MT) - 77 năm qua, ngành Địa chất Việt Nam đã liên tục vươn lên mạnh mẽ, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Trong quá trình hình thành và phát triển, mặc dù có những thay đổi về tổ chức, nhưng ngành Địa chất Việt Nam luôn phát huy được truyền thống vẻ vang, sáng tạo, cần cù, đạt được nhiều thành tựu quan trọng gắn với chiều dày lịch sử.
img_6918(1).jpg
Kết quả điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản góp phần tăng thêm tài nguyên các loại khoáng sản trọng tâm, chiến lược cho đất nước

Hoàn thành 2 nhiệm vụ lớn

Trong 77 năm qua, Ngành Địa chất Việt Nam luôn phát huy được truyền thống và tiếp tục đạt được nhiều thành tựu mới. Đáng chú ý, 20 năm qua, ngành Địa chất Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng, đó là: thực hiện tốt Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 1/3/1996 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược tài nguyên khoáng sản và phát triển công nghiệp khai khoáng đến năm 2010; Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25/4/2011 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020 định hướng đến năm 2030. Trên cơ sở đó đã xây dựng và trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/2/2022 (Nghị quyết số 10) về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết số 10 chắc chắn sẽ mở ra một trang sử mới giúp cho việc nghiên cứu cơ bản địa chất về khoáng sản hoàn thiện hơn, đóng góp nhiều cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tiếp theo.

Trong giai đoạn 2005 - 2021, ngành địa chất khoáng sản đã có 2 lần ban hành và sửa đổi Luật Khoáng sản, được Quốc hội thông qua như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản (năm 2005) và Luật Khoáng sản (năm 2010). Trên cơ sở đó, Quốc hội ban hành 1 Nghị quyết về kết quả giám sát và đẩy mạnh thực hiện chính sách pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 11 Nghị định, Quyết định, các bộ, ngành liên quan ban hành 60 Thông tư, thực hiện Nghị định và quy trình kỹ thuật…

Dù đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng trong quá trình thực thi, Luật Khoáng sản năm 2010 cũng vẫn còn bộc lộ một số điểm tồn tại, bất cập, chưa bắt kịp xu hướng vận hành và phát triển của xã hội. Để thể chế hóa được những quan điểm, định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước, hoàn thiện pháp luật về địa chất và khoáng sản, phát huy những kết quả tích cực đã đạt được, khắc phục những tồn tại, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Khoáng sản để ban hành thành Luật Địa chất và Khoáng sản, nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước tập trung, thống nhất ở Trung ương cho lĩnh vực quản lý về địa chất, khoáng sản, phục vụ kịp thời cho phát triển kinh tế - xã hội.

Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam vừa hoàn thiện nhiệm vụ lập hồ sơ đề nghị xây dựng Dự án Luật Khoáng sản (sửa đổi) trình Bộ TN&MT, sau đó Bộ trình Quốc hội thông qua. Song song với nhiệm vụ lập hồ sơ đề án Luật Khoáng sản (sửa đổi), Tổng cục cũng đã triển khai việc lập Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản giai đoạn 2021 - 2030 tầm nhìn đến năm 2050 theo đúng trình tự, thủ tục, tuân thủ theo quy định của Luật Quy hoạch. Tổng cục đã gửi lấy ý kiến và đến nay, về cơ bản đã nhận được gần hết các ý kiến đóng góp của các bộ, ban ngành và các địa phương. Tổng cục cùng nhà tư vấn đã tiếp thu, chỉnh sửa đầy đủ và đã hoàn thiện hồ sơ trình Bộ TN&MT để Bộ trình và báo cáo Thủ tướng thành lập Hội đồng thông qua kết quả lập Quy hoạch theo đúng tiến độ và thời gian đề ra.

img_6972.jpg
Các nhà địa chất thực hiện nhiều nhiệm vụ, đề án tại các địa hình hiểm trở

Trong những năm qua, công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản đã hoàn thành việc đo vẽ lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 đạt hơn 80% diện tích đất liền, phát hiện hàng trăm điểm quặng có giá trị và nhiều điểm quặng đã chuyển sang điều tra đánh giá và thăm dò như sắt ở Tân An (Yên Bái), La Ê (Quảng Nam); graphit ở Bảo Thắng (Lào Cai); vàng ở Tân Uyên (Lai Châu), Phước Sơn (Quảng Nam); kaolin - felspat ở Bảo Thắng (Lào Cai), Tân Biên (Tây Ninh); đá ốp lát ở Gia Lai và nhiều nơi khác... Đặc biệt, việc phát hiện quặng đồng ở Kon Rẫy (Kon Tum) là một trong 10 sự kiện của ngành TN&MT năm 2017.

Công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản cũng đã hoàn thành lập bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:100.000 từ 0 - 30m nước, diện tích 18.388km2, đang thi công lập bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:500.000 trên diện tích hơn 266.000km từ 50 - 2.500m nước, đã phát hiện và khoanh vùng các khu vực có triển vọng sa khoáng titan và vật liệu xây dụng (cát, sạn) ở nhiều khu vực thuộc dải biển ven bờ từ Thanh Hóa đến Bà Rịa - Vũng Tàu. Đồng thời, hoàn thành công tác lập bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 trên 15 tỉnh miền núi phía Bắc, điều tra cập nhật, bổ sung thông tin hiện trạng và nguy cơ trượt lở đất đá cho 64 xã trọng điểm thuộc 7 tỉnh miền núi phía Bắc; thành lập bản đồ phông phóng xạ môi trường tỷ lệ 1:1.000.000, bản đồ môi trường phóng xạ tỷ lệ 1:250.000; về điều tra di sản địa chất: được UNESCO công nhận 2 công viên địa chất toàn cầu là Công viên địa chất non nước Cao Bằng và Công viên địa chất Đắk Nông...

Kết quả công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản trong những năm qua không chỉ góp phần tăng thêm tài nguyên các loại khoáng sản trọng tâm, chiến lược cho đất nước, phục vụ kịp thời hiệu quả cho các quy hoạch thăm dò và khai thác khoáng sản, mà còn là cơ sở dữ liệu khoa học đối với các ngành kinh tế như giao thông, thủy lợi, khí tượng thủy văn, nông - lâm nghiệp...

Nhiều địa phương quản lý, khai thác hiệu quả tài nguyên khoáng sản

Bên cạnh những kết quả trên, Ngành Địa chất cũng ghi nhận những thành tựu đáng chú ý nhờ Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Thực hiện Chiến lược này, các địa phương đã đẩy mạnh cấp phép thăm dò, phê duyệt trữ lượng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường gồm: Đá, cát, sỏi xây dựng và san lấp, sét làm gạch ngói. Đến nay, đã thăm dò và phê duyệt trữ lượng trên 950 triệu m3 đá, trên 650 triệu m3 đất sét gạch ngói, trên 400 triệu m3 cát, sỏi và trên 200 triệu m3 đất, cát làm vật liệu san lấp. Tuy vậy, với nhu cầu sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường như hiện nay, nhất là đá và cát, sỏi, sẽ không đủ trữ lượng để khai thác trong 10 năm tới.

Liên quan đến vấn đề này, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên Hồ Thị Nguyên Thảo cho biết, hiện nhu cầu vật liệu trên địa bàn rất lớn, đặc biệt xây dựng các công trình nông thôn mới, các dự án cần đất san lấp, cát đá… Trước tình hình đó, địa phương đã triển khai, phối hợp với các đơn vị có liên quan đưa vào quy hoạch, đấu giá nhằm đáp ứng nhu cầu. Ngoài ra, theo dõi, đôn đốc các chủ mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, đặc biệt là mỏ cát báo cáo trữ lượng khai thác định kỳ hàng tháng cho đến khi dự án Thuê dịch vụ lưu trữ, quản lý thông tin về khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Phú Yên hoàn thành và đi vào hoạt động.

Mặc dù còn một số điểm bất cập nhưng Luật Khoáng sản 2010 đi vào thực tiễn cuộc sống đã giúp nhiều địa phương thực hiện tốt công tác quản lý, khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản, đặc biệt, nguồn khoáng sản làm vật liệu xây dựng từng bước đáp ứng nhu cầu thực tiễn, tăng nguồn thu cho ngân sách.

Trong số những địa phương thực hiện tốt công tác đấu giá khoáng sản trên cả nước theo đánh giá của Bộ TN&MT, phải kể đến tỉnh Hà Tĩnh. Việc đấu giá mỏ khoáng sản không chỉ góp phần tăng thu ngân sách mà còn tạo “sân chơi” bình đẳng, công bằng, minh bạch giữa các doanh nghiệp.

Theo ông Nguyễn Văn Thành - Trưởng Phòng Khoáng sản (Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Tĩnh), Sở đã khuyến khích các đơn vị tận dụng các loại vật chất nạo vét của các bến cảng, nhà máy nhiệt điện (4,8 triệu m3/năm); các loại chất thải rắn (tro bay, tro đáy, xỉ thép với 2,4 triệu m3/năm) trong khu kinh tế Vũng Áng, đã được các ngành chức năng công bố hợp quy, hợp chuẩn, đảm bảo làm sản phẩm hàng hóa, thay thế dần cho vật liệu san lấp truyền thống, góp phần bảo vệ môi trường.

Việc chủ động nguồn cung vật liệu xây dựng thông thường trước khi triển khai thi công sẽ tránh tình trạng khan hiếm, làm chậm tiến độ các dự án, công trình trọng điểm trên địa bàn Hà Tĩnh. Điều này là hết sức quan trọng, thu hút thêm các nhà đầu tư, doanh nghiệp, đơn vị có năng lực tìm kiếm cơ hội đầu tư dự án, công trình, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Trong lĩnh vực đánh giá khoáng sản, đã hoàn thành 21 đề án, một số đề án đã điều tra, đánh giá đến độ sâu trên 500m (than nâu vùng Thái Bình - Nam Định, vàng Yên Sơn; đồng ở Bát Xát, Lào Cai; Kon Rẫy, Kon Tum). Trong đó, có các loại khoáng sản điển hình đã được xác định tài nguyên chắc chắn như: than nâu 6.700 ngàn tấn (trên diện tích 265km2); Urani oxit - U3O8 (8.600 tấn) sắt (650.000 tấn kim loại) và gần 2.300.000 ngàn tấn quặng sắt kiểu laterit; 1.870.000 ngàn tấn tinh quặng nhôm (bauxit); 557 triệu tấn tinh quặng titan; 61.000 ngàn tấn quặng Wolfram (WO¬3); đồng 81.000 ngàn tấn kim loại; felspat-kaolin 21.780.000 tấn quặng; cát trắng 10.400 tấn... Ngoài ra đang điều tra làm rõ nguồn tài nguyên đất hiếm dạng ion hấp phụ trên toàn quốc.

Mai Đan