Phát huy nguồn lực tài nguyên đất đai, góp phần phát triển đất nước

Ngành TN&MT - Ngày đăng : 15:12, 04/08/2022

(TN&MT) - Đất đai là nguồn tài nguyên, tài sản quan trọng của quốc gia, do đó, việc phân bổ, sử dụng hợp lý, tiết kiệm hiệu quả cao; bảo đảm lợi ích trước mắt và lâu dài, bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước luôn là vấn đề xuyên suốt trong hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng là yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý Nhà nước về đất đai.

Trong mỗi một giai đoạn lịch sử, trước yêu cầu bảo vệ và phát triển của đất nước, chủ trương, chính sách về đất đai của Đảng và Nhà nước liên tục được đổi mới từ đó đã đưa nguồn tài nguyên đất đai dần trở thành nguồn lực, nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Nhìn lại từ khi thành lập Bộ TN&MT, công tác quản lý Nhà nước về đất đai đã đạt được những kết quả toàn diện trên tất cả lĩnh vực, góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội, đã tổ chức chỉ đạo để rà soát xử lý tình trạng lãng phí đất đai; hoàn thành cơ bản công tác đo đạc, cắm mốc ranh giới đất của các công ty, nông, lâm nghiệp; hoàn thành cấp giấy chứng nhận (GCN) đối với 97,2% diện tích đất cần cấp để đất đai tham gia vào thị trường bất động sản; hoàn thành việc lập quy hoạch sử dụng đất từ cấp quốc gia đến cấp tỉnh; nguồn thu từ đất đai đóng góp hơn 8% thu ngân sách Nhà nước và hơn 10% thu ngân sách nội địa hằng năm...

t22.jpg

Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà phát biểu tại buổi làm việc với Bộ Tài chính về hoàn thiện Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) diễn ra ngày 28/7/2022.

Theo đó, hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý đất đai thể hiện trên các bình diện như: đã đổi mới công tác hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật để xóa bỏ nhiều rào cản, tháo gỡ vướng mắc trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai, góp phần ổn định chính trị - xã hội, thông qua việc trình ban hành Luật Đất đai năm 2003, chủ trì tổng kết Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa IX) về tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tại kỳ họp thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Trình Quốc hội thông qua Luật Đất đai năm 2013; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW để trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về chính sách đất đai với những quan điểm, định hướng lớn về đất đai để tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai trong thời gian tới. Tham mưu trình Chính phủ ban hành và trình cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để giải quyết căn bản những vướng mắc khó khăn trong quá trình thi hành Luật Đất đai, với nhiều đóng góp lớn góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy sản xuất phát triển, phát huy nguồn lực đất đai và đảm bảo quyền của người sử dụng đất...; các văn bản được trình ban hành theo đúng trình tự, thủ tục, đảm bảo tiến độ, kịp thời có hiệu lực ngay khi Luật Đất đai có hiệu lực thi hành, khắc phục tình trạng Luật chờ các văn bản hướng dẫn.

t22a.jpg

Xây dựng thông tin đất đai Việt Nam.

Bên cạnh đó, quản lý Nhà nước về đất đai tiếp tục góp phần đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân từ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đất đai. Bảo đảm diện tích đất trồng lúa để ổn định an ninh lương thực quốc gia, với việc duy trì 3,76 triệu ha đất lúa, trong đó bảo vệ nghiêm ngặt đối với 3,1 triệu ha đất chuyên trồng lúa nước để đảm bảo phù hợp với tiến trình phát triển trong tình hình mới, nhưng cũng vẫn đảm bảo và duy trì an ninh lương thực quốc gia; đồng thời cho phép chuyển đổi linh hoạt khoảng 300 nghìn ha đất trồng lúa để đảm bảo chủ động trước tác động của biến đổi khí hậu, nhu cầu của thị trường và nâng cao hiệu quả sử dụng đất, thu nhập cho nông dân.

Công tác quản lý đất đai tiếp tục khẳng định vai trò đảm bảo nhu cầu sử dụng đất cho các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội, BVMT phù hợp với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua việc: Hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, làm căn cứ để Nhà nước giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất cho các mục tiêu phát triển, quốc phòng, an ninh.

Đồng thời, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ cấp GCN lần đầu đối với các loại đất, góp phần đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền của người sử dụng đất, thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển, cả nước đã đo đạc lập bản đồ địa chính đạt trên 77% tổng diện tích tự nhiên; tỷ lệ cấp GCN lần đầu đạt trên 97% tổng diện tích các loại đất cần cấp (trung bình mỗi năm trong giai đoạn này tăng từ 0,16% đến 2%, tương đương mỗi năm khoảng gần 20 ngàn GCN). Kết quả này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về đất đai, bảo đảm điều kiện pháp lý cho người sử dụng đất thực hiện các quyền, nghĩa vụ hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật đất đai.

Số tiền thu từ đất (tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp) đã tăng qua các năm, trung bình nguồn thu từ đất đóng góp từ 12% đến 15% cho ngân sách Nhà nước, cá biệt có những nơi nguồn thu từ đất chiếm tới trên 30% ngân sách địa phương.

Đặc biệt, nguồn lực về đất đai tiếp tục được phát huy, góp phần tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, đồng thời bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người sử dụng đất, lợi ích của Nhà nước, chủ đầu tư; các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng, ban hành và công bố công khai Bảng giá đất theo quy định, công tác xác định giá đất cụ thể đã được các tỉnh, thành phố tổ chức thực hiện đúng quy định, quy trình, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người có đất bị thu hồi.

Công tác cải cách thủ tục hành chính được tập trung chỉ đạo, đã cắt giảm, đơn giản hóa nhiều thủ tục hành chính, phối hợp liên thông, chia sẻ cơ sở dữ liệu về đất đai cho các ngành, lĩnh vực để góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc khơi thông nguồn lực đất đai phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với việc cắt giảm từ 1/2 - 1/3 thời gian thực hiện thủ tục khi thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền tài sản trên đất, chỉ số đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản (một trong 10 chỉ số để đánh giá môi trường kinh doanh) có sự chuyển biến mạnh mẽ, đứng thứ 60/190 quốc gia được đánh giá.

Tất cả các huyện trên cả nước đã ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hồ sơ địa chính, quản lý đất đai ở các mức độ khác nhau, trong đó có 182/713 đơn vị hành chính cấp huyện thuộc 46 tỉnh, thành phố đang vận hành, quản lý khai thác, sử dụng đồng bộ cơ sở dữ liệu đất đai để phục vụ công tác quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính về đất đai, đồng thời góp phần làm minh bạch thị trường bất động sản. Bên cạnh đó, thực hiện thí điểm kết nối liên thông điện tử giữa cơ quan thuế và cơ quan đăng ký đất đai, đây là một bước đột phá cải cách thủ tục hành chính rất quan trọng, được người dân và các cơ quan quản lý Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao...

t22b.jpg

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về đất đai nhằm phát huy tối đa nguồn lực đất đai cho phát triển đất nước, công tác quản lý đất đai trong thời gian tới cần tập trung thực hiện và hoàn thiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, hệ thống chính sách pháp luật đất đai phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để Nhà nước “nắm chắc, quản chặt” quỹ đất đai thông qua việc thể chế đầy đủ nội dung của Nghị quyết mới của Ban Chấp hành Trung ương về chính sách, pháp luật về đất đai bằng việc hoàn thành và trình ban hành Luật Đất đai (sửa đổi) trong thời gian tới, đồng thời phân bổ nguồn tài nguyên đất đai cho các ngành kinh tế, xã hội, đảm bảo mục tiêu của quốc phòng, an ninh; tăng cường chỉ đạo, tổ chức triển khai và kiểm tra việc thi hành pháp luật về đất đai; đánh giá tác động của các chính sách, pháp luật đất đai đối với phát triển kinh tế, xã hội và cộng đồng.

Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện hệ thống dữ liệu đất đai, đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về đất đai trên tất cả các lĩnh vực; xây dựng hệ thống thông tin đất đai thành một bộ phận của hệ thống dữ liệu Quốc gia; chuyển dần các hoạt động đăng ký, giao dịch trong lĩnh vực đất đai sang giao dịch điện tử; tổ chức việc quản lý, khai thác, vận hành có hiệu quả hệ thống thông tin đất đai; cập nhật, chỉnh lý kịp thời các dữ liệu địa chính, điều tra cơ bản về đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá đất, thống kê, kiểm kê đất đai và các dữ liệu khác thuộc cơ sở dữ liệu đất đai.

Thứ ba, tập trung điều tra cơ bản, đánh giá tiềm năng và chất lượng tài nguyên đất đai toàn quốc, trong đó chú trọng việc điều tra các vùng đặc thù về thoái hóa, xâm nhập mặn, ngập úng, khô hạn, hoang mạc hóa, xói mòn, rửa trôi, ô nhiễm đất phục vụ quản lý, sử dụng đất bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH); đổi mới phương pháp thực hiện và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong công tác thống kê, kiểm kê đất đai định kỳ và theo chuyên đề nhằm cung cấp số liệu chính xác phục vụ công tác quản lý Nhà nước về đất đai và phát triển kinh tế, xã hội.

Từ năm 2016 đến nay, đã thực hiện giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất để giải quyết nhu cầu nhà ở đô thị, nông thôn khoảng trên 19,6 nghìn ha, phát triển sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp khoảng 15,5 nghìn ha, xây dựng kết cấu hạ tầng khoảng 25,5 nghìn ha, đưa hơn 500ha đất chưa sử dụng vào phục vụ các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, qua đó đã hình thành lên các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu du lịch, dịch vụ đồng bộ, có quy mô sử dụng đất lớn đóng góp trực tiếp cho quá trình chuyển dịch kinh tế - xã hội. Hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, phi nông nghiệp tăng gấp hơn 2 lần so với trước đây.

Thứ tư, hoàn thiện hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tiếp tục nghiên cứu đổi mới nội dung và phương pháp theo công nghệ tiên tiến trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất lồng ghép với các yếu tố môi trường và BĐKH; xây dựng, hoàn thiện cơ chế, triển khai ứng dụng công nghệ hiện đại trong giám sát biến động tài nguyên đất đai và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, ưu tiên giám sát việc quản lý, sử dụng đất chuyên trồng lúa, đất rừng để góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và BVMT sinh thái.

Thứ năm, hoàn thiện hệ thống cơ chế tài chính về đất đai với các yêu cầu cụ thể như hệ thống định giá đất trở thành công cụ tài chính điều tiết các quan hệ đất đai và quản lý thị trường bất động sản; xây dựng hệ thống phát triển quỹ đất bảo đảm phát triển và quản lý quỹ đất một cách chặt chẽ, hợp lý, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội.

Thứ sáu, kiện toàn hệ thống bộ máy tổ chức, nâng cao năng lực quản lý đất đai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo chức năng thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai trên phạm vi cả nước, có sự phân công, phân cấp rõ ràng, hoạt động có hiệu quả, đủ năng lực thực hiện các hoạt động quản lý Nhà nước và các dịch vụ công về đất đai. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đầu tư trang thiết bị, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ ngang tầm trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Trường Giang