Văn học và môi trường - trong ngôi nhà trái đất

Xã hội - Ngày đăng : 14:44, 04/08/2022

(TN&MT) - Chưa bao giờ vấn đề môi trường sinh thái lại đặt ra một cách bức thiết như hiện nay. Các hiện tượng thời tiết cực đoan, các thảm họa thiên tai đang đặt con người vào tình thế phải nhìn nhận lại cách chúng ta sống và ứng xử với môi trường.

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp đã mang đến nhiều tiện ích cho con người, nhưng cũng chính nền công nghiệp đã và đang từng bước hủy hoại môi trường. Đứng trước thực tại ấy, văn chương là một cách cất lời, một chất vấn, một đề nghị với con người khi sống chung trong ngôi nhà trái đất.

Cái nhìn về một nền văn học toàn cầu được gợi ra từ GS. David Damrosch, dựa trên những quan sát về các chủ đề có tầm vóc nhân loại, đang diễn ra rộng khắp trên toàn thế giới. Môi trường, sinh thái chính là một chủ đề như vậy.

Văn học sinh thái “là cách định danh thời nay đối với những tác phẩm văn học ra đời trong bối cảnh môi trường sinh thái ngày càng xấu đi, nội dung của chúng thể hiện trách nhiệm xã hội của người viết đối với vấn nạn này” (Phê bình sinh thái là gì?, Nxb Hội Nhà văn, 2017, tr. 5). Như thế, nội hàm của khái niệm văn học sinh thái đặt ra hai đòi hỏi, cũng có thể xem là hai phạm trù căn bản của một tác phẩm văn học sinh thái: một là: thể hiện được thực tại sinh thái; hai là: có ý thức tôn trọng sinh thái, lấy sinh thái làm trung tâm.

t34.jpg

Hai phạm trù này phải bao trùm được các vấn đề chủ yếu, có thể xem là đặc trưng của văn học sinh thái: thứ nhất: cảnh báo thực tại sinh thái; thứ hai: phê phán thái độ, hành động hủy hoại môi trường sinh thái; thứ ba: chấn chỉnh hay làm sáng tỏ các mơ hồ sinh thái trong cộng đồng (từ góc độ văn học, văn hóa); thứ tư: khơi dậy, thúc đẩy, hiện thực hóa các vấn đề thuộc về nhận thức, đức tin, đạo đức hay hành động của con người.

Căn cứ vào những đặc trưng này, rõ ràng ở Việt Nam, các tác phẩm văn học sinh thái khá hiếm hoi. Mặc dù vậy, ngầm ẩn hoặc ở các mức độ không hoàn toàn đáp ứng yêu cầu về thể tài, vẫn có khá nhiều tác giả, tác phẩm liên quan mật thiết đến môi trường sinh thái.

Chúng ta có thể điểm ra ở đây một số tác phẩm như thế: Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, Con voi ở công viên Thủ Lệ của Ngô Văn Phú, Chuyện ông Móng, Muối của rừng của Nguyễn Huy Thiệp, Cẩm cù của Y Ban, Thần thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn, Kẻ ám sát cánh đồng, Châu thổ, Có một người rời bỏ thành phố của Nguyễn Quang Thiều, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, Họ vẫn chưa về của Nguyễn Thế Hùng, Mình ơi anh cưới dòng sông nhé, Linh điểu của Nguyễn Văn Học,…

Cùng với đó, văn học dịch cũng đã đem đến cho công chúng Việt Nam khá nhiều tác phẩm gợi lên cái nhìn trách nhiệm hơn của con người đối với sinh thái (Một mình sống trong rừng - David Thoreau; Vẫy vùng giữa vũng lầy - Carl Heeasen…).

Văn chương không đề xuất giải pháp, mà trong im lặng thấm sâu vào lòng người, vào trí tưởng, cảm xúc, gợi lên những suy tư… từ đó hình thành nhận thức, thái độ. Đọc Đất rừng phương Nam, chúng ta thêm yêu cuộc sống thiên nhiên nơi đây, nơi gắn bó, bao bọc và nuôi sống con người. Đọc Con voi ở công viên Thủ Lệ, chúng ta thấy xót xa đến rơi lệ trước cuộc sống và cái chết của chú voi. Đọc Muối của rừng, chúng ta nhận ra con người cũng là một sinh vật trong ngôi nhà chung tự nhiên, chúng ta nhận ra những ứng xử tình nghĩa của loài vật, chúng ta nhận ra thiên nhiên tươi đẹp, bao dung biết bao. Đọc Thần thánh và bươm bướm, Kẻ ám sát cánh đồng chúng ta thấy thương những cánh đồng đang mất dần màu xanh trước sự phát triển mạnh mẽ của đô thị, của những mưu đồ trục lợi đã làm biến dạng nông thôn. Đọc Cánh đồng bất tận ta thương những cuộc đời phiêu dạt, nổi nênh; thương những cánh đồng đói kém nghèo nàn vẫn chở che cho con người trong số kiếp nhọc nhằn của mình. Đọc Họ vẫn chưa về, chúng ta nhớ những làng quê bình yên, thương loài hươu sao bị nuôi nhốt và khai thác một cách tàn bạo…

Mỗi tác phẩm là một thực tại làm nhức nhối trong ta những suy tư về cách con người đã sống, đã đối xử với tự nhiên, với môi trường mà mình là một phần của nó. Vẫy vùng giữa vũng lầy, ngoài câu chuyện hôn nhân, đó là những phản ánh thực sự đáng sợ về môi trường tự nhiên vùng đầm lầy nước Mỹ khi những công ty công nghiệp xả nước thải làm hủy hoại môi trường.

Văn học sinh thái, xét rộng ra là những động thái của văn học, tập trung vào vấn đề “lấy thiên nhiên làm trung tâm”, xem xét con người trong mối quan hệ với tự nhiên - con người chỉ là một bộ phận của tự nhiên. Ở đó, thiên nhiên hiện ra như là một thực thể có tính môi sinh mà con người phụ thuộc vào (nó cũng chất vấn luôn tham vọng làm chủ thiên nhiên, chế ngự thiên nhiên của con người).

Đứng từ góc độ văn chương, không có tác phẩm nào không đụng chạm đến vấn đề môi trường, sinh thái. Đó là không gian của sự tồn tại nhân vật, chuyện kể, sự kiện. Tuy nhiên, nếu hiểu chặt chẽ hơn khái niệm văn học sinh thái như một khuynh hướng, một dòng mạch, với quan niệm rõ ràng, thái độ cụ thể, chiến lược viết một cách có ý thức về sinh thái, ở Việt Nam, dòng mạch này chưa thực sự phát triển. Ngay cả những tác phẩm viết về đô thị cũng là một cách dẫn chiếu về sinh thái khi bày ra thực trạng tự nhiên đã bị “cưỡng bức” như thế nào trong các đô thị hiện đại.

t34a.jpg

Từ khi xã hội hình thành và tiến hành các cuộc cách mạng công nghiệp một cách vô độ, thiên nhiên đã bị lợi dụng, bị hủy hoại, bị bức tử. Những cánh rừng mất đi, những dòng sông hẹp lại và biến mất, những cánh đồng biến thành khu công nghiệp, lũ lụt, hạn hán, nước biển dâng, hiệu ứng nhà kính, dịch bệnh bùng phát… đã nghiêm khắc đặt con người vào tình thế phải xem xét lại trách nhiệm của mình. Văn chương, trong tư cách là một loại hình nghệ thuật, từng được gắn các phẩm tính nhân văn, nhân bản, nhân tính, nhân đạo… có lẽ cũng cần phải thay đổi, thâu nạp thêm các tính chất khác trong thái độ trân trọng tự nhiên, hòa giải với tự nhiên.

Văn học sinh thái lấy tự nhiên làm trung tâm, nhưng không phải là xóa bỏ loài người, nhân tính. Trong sự vận động của dòng văn học này, tự nhiên và con người có được thái độ chung sống bình đẳng, đáp ứng những quyền lợi của nhau nhằm hướng đến sự tồn tại một cách bền vững nhất. Từ thực tiễn sáng tác văn học sinh thái cùng các hoạt động vì môi trường khác, hướng phê bình sinh thái ra đời để làm rõ hơn mối quan hệ ấy của con người và tự nhiên.

Ở Việt Nam, hướng phê bình sinh thái đang nhận được nhiều sự quan tâm của các học giả, các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, việc dịch thuật lý thuyết phê bình sinh thái, việc hiểu thế nào là văn học sinh thái, phê bình sinh thái… vẫn còn chưa phát triển đúng tầm với thực trạng biến đổi môi trường ở Việt Nam và thế giới.

Không khó để nhận ra những “mơ hồ sinh thái” (Karen L Thornber) trong cái cách mà người ta can dự vào tự nhiên, nhân danh việc bảo vệ - bảo tồn tự nhiên. Đôi khi chúng ta thấy hài hước trước những mơ hồ ấy. Để bảo vệ rừng lim, người ta lại đi triệt hạ các loài cây khác xung quanh nó. Để bảo vệ động vật hoang dã, người ta lại quây thành các khu vực (có tính chất như nuôi nhốt) và can thiệp vào cấu trúc sinh tồn tự nhiên của loài vật… Đau đớn hơn, khi một loài vật nào được đưa vào sách đỏ, đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, cần được bảo vệ, lại là lúc giống loài ấy bị săn đuổi phục vụ những kẻ có nhu cầu thưởng thức đặc sản.

Văn chương nghệ thuật không đề xuất giải pháp cho các vấn đề đã nêu ở trên. Văn chương làm người ta nhận ra mình, nhận ra đồng loại, nhận ra những sinh vật khác, điều kiện sống - giá trị sống khác xung quanh mình, liên hệ mật thiết, sinh tử với mình. Từ nhận thức và tình cảm ấy, con người hình thành thái độ, hành vi ứng xử với tự nhiên, môi trường. Đó là cách những cơn mưa dầm lặng lẽ thấm sâu vào đất, nuôi dưỡng những mầm sống vươn lên, giữ cho sự sống vĩnh hằng trong ngôi nhà chung mang tên trái đất.

Nhà văn Nguyễn Thanh Tâm