Cần thiết đầu tư Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu, Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột và Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng

Trong nước - Ngày đăng : 10:44, 06/06/2022

(TN&MT) - Sáng 6/6, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh báo cáo thẩm tra các Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu, Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng (giai đoạn 1).

Cần thiết đầu tư các dự án

Đánh giá về sự cần thiết của Dự án, Ủy ban Kinh tế nhất trí với sự cần thiết đầu tư 3 Dự án này với những lý do đã nêu tại Tờ trình Chính phủ nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 đã được Đại hội lần thứ XIII của Đảng thông qua. Đồng thời, việc đầu tư các tuyến cao tốc này sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các vùng có tuyến cao tốc đi qua, giúp tăng cường việc bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị cần đánh giá kỹ tính cấp thiết, khả năng bố trí nguồn lực, đánh giá tác động của việc sử dụng vốn đầu tư công triển khai cùng lúc nhiều dự án hạ tầng đối với lạm phát, khả năng giải ngân, hấp thụ vốn, sự cân đối và hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, năng lực quản lý, khả năng gây ra tình trạng khan hiếm và tăng giá nguyên vật liệu.

22.jpg
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh báo cáo thẩm tra các Dự án. Ảnh: quochoi.vn

Về sự phù hợp của Dự án đối với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch có liên quan, ông Vũ Hồng Thanh cho rằng, các Dự án được lập cơ bản phù hợp với Chiến lược, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được Đại hội lần thứ XIII của Đảng thông qua; Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phù hợp với quy hoạch có liên quan và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (3 Dự án được triển khai đầu tư trong giai đoạn 2021 - 2025).

Tuy nhiên, hiện nay, các tỉnh thuộc phạm vi các dự án đang triển khai, thực hiện lập quy hoạch tỉnh, do đó, đề nghị các địa phương cần cập nhật, cụ thể hóa các Dự án này trong quy hoạch tỉnh để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống quy hoạch, đặc biệt là việc kết nối thuận lợi cảng biển, cảng hàng không, các khu công nghiệp, du lịch, trung tâm logistics…; lựa chọn phương án hướng tuyến tối ưu, tiết kiệm, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư.

Có ý kiến cho rằng, có sự khác biệt về chiều dài của các tuyến cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột và Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng so với Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, do đó, đề nghị Chính báo cáo, làm rõ.

Đối với hình thức đầu tư, về các dự án Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột và Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Ủy ban Kinh tế nhận thấy do 2 tuyến này có lưu lượng xe thấp, thời gian hoàn vốn dài, nên việc đầu tư theo phương thức đối tác công tư là khó khả thi. Vì vậy, việc Chính phủ đề xuất áp dụng hình thức đầu tư công là phù hợp.

Về dự án Biên Hòa - Vũng Tàu, một số ý kiến cho rằng Dự án này đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư theo phương thức đối tác công tư, trong bối cảnh nguồn lực nhà nước còn hạn chế nhưng đang phải triển khai thực hiện nhiều dự án hạ tầng giao thông quan trọng thì việc thu hút được các nguồn lực ngoài Nhà nước tham gia đầu tư là rất cần thiết. Do đó, đề nghị cân nhắc tiếp tục đầu tư Dự án này theo phương thức đối tác công tư.

Nhiều ý kiến cho rằng, trường hợp triển khai Dự án này theo phương thức đối tác công tư sẽ đến năm 2026 mới cơ bản hoàn thành. Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, việc thu xếp, tiếp cận nguồn tín dụng của các nhà đầu tư còn khó khăn, đồng thời, thực tế triển khai một số dự án BOT thời gian qua cho thấy, tiến độ chưa đạt yêu cầu đề ra và khó xác định chính xác được thời gian hoàn thành.

Do đó, nếu triển khai theo phương thức đối tác công tư sẽ không bảo đảm được tiến độ cơ bản hoàn thành năm 2025 để khai thác đồng bộ với tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, Cảng hàng không quốc tế Long Thành, Cảng biển Cái Mép - Thị Vải và góp phần giải quyết tình trạng quá tải của các tuyến đường giao thông hiện hữu đang ảnh hưởng rất lớn đến an toàn giao thông và phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương liên quan, vì vậy, UBKT tán thành với đề xuất của Chính phủ.

Về phương án thiết kế sơ bộ, một số ý kiến cho rằng Chính phủ đề xuất đầu tư phân kỳ 2 dự án (Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột và Châu Đốc - Cần Thơ – Sóc Trăng) với quy mô bề rộng nền đường từ 17m, không có 2 làn dừng xe khẩn cấp là chưa phù hợp theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 5729:2012) về đường ôtô cao tốc, do quy mô đầu tư bề rộng nền đường 17m không có 2 làn dừng xe khẩn cấp mà chỉ bố trí điểm dừng xe khẩn cấp sẽ khó bảo đảm an toàn giao thông và dễ xảy ra tình trạng tắc nghẽn làm giảm hiệu quả đầu tư, vì vậy, UBKT đề nghị báo cáo cụ thể hơn về quy mô đầu tư phân kỳ và phương án mở rộng trong giai đoạn hoàn chỉnh của các dự án này.

Theo ông Vũ Hồng Thanh, một số ý kiến đề nghị cần rà soát, làm rõ quy mô và hình thức nút giao, hệ thống cầu vượt, đường gom, hầm chui dân sinh, phương án trắc dọc, tốc độ thiết kế... theo từng đoạn tuyến để bảo đảm hiệu quả đầu tư, khai thác và tối ưu tổng mức đầu tư của các dự án này. Uỷ ban Kinh tế đề nghị Chính phủ báo cáo làm rõ các ý kiến trên.

Về sơ bộ phương án thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, theo Ủy ban Kinh tế, qua thực tế triển khai các dự án thời gian qua cho thấy tiến độ thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phụ thuộc vào sự chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền địa phương. Vì vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ có các giải pháp chỉ đạo, điều hành quyết liệt, đồng bộ để nâng cao công tác phối hợp giữa các cơ quan thực hiện và có chế tài gắn trách nhiệm đối với các cấp chính quyền địa phương để bảo đảm được tiến độ hoàn thành các Dự án. Đồng thời, Chính phủ cần quan tâm và ban hành chính sách hợp lý và đền bù thỏa đáng đối với người dân bị ảnh hưởng của các Dự án, đặc biệt, đối với khu vực giáp ranh giữa hai địa phương.

Có ý kiến cho rằng, dự án Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng cần thu hồi 860 ha đất trồng lúa, do đó, cần báo cáo Quốc hội ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định, tuy nhiên, một số ý kiến khác cho rằng Luật Đất đai không quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa đối với dự án đã được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, hơn nữa Chính phủ cũng đã đề xuất Quốc hội xem xét diện tích đất trồng lúa cần được chuyển đổi và để tránh phát sinh thủ tục kéo dài thời gian chuẩn bị dự án đề nghị thực hiện theo đúng quy định pháp luật.

1.jpg
Quang cảnh phiên họp. Ảnh: quochoi.vn

Làm rõ sơ bộ tổng mức đầu tư Dự án

Về sơ bộ tổng mức đầu tư, một số ý kiến đề nghị cần tiếp tục rà soát kỹ suất đầu tư và so sánh với các dự án cao tốc tương tự để làm rõ sơ bộ tổng mức đầu tư của các Dự án này. Ngoài ra, trong thời gian vừa qua, giá các loại vật tư, nhiên liệu tăng cao, do đó cần lưu ý, xem xét, tính toán dự phòng trong tổng mức đầu tư. Đồng thời, cần báo cáo, làm rõ hơn các chi phí thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đặc biệt liên quan đến việc chuyển mục đích sử dụng rừng, đất lúa. Ủy ban Kinh tế đề nghị báo cáo, làm rõ các ý kiến trên.

Về nguồn vốn, các Dự án sử dụng nguồn kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 dự kiến phân bổ cho Dự án khoảng 26.147 tỷ đồng theo Nghị quyết số 29/2021/QH15 của Quốc hội (trong 78.719 tỷ đồng, Quốc hội đã dự kiến phân bổ vốn cho các dự án đường bộ cao tốc, dự án trọng điểm khác); nguồn vốn từ rà soát, sắp xếp lại Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 của Bộ Giao thông vận tải khoảng 2.203 tỷ đồng.

Uỷ ban Kinh tế cho rằng việc Chính phủ dự kiến tập trung các nguồn vốn nêu trên nhằm cơ bản hoàn thành các Dự án là phù hợp. Tuy nhiên, theo báo cáo của Chính phủ trong số các dự án dự kiến tiết giảm vốn, có một số dự án hoàn thành trong và sau năm 2022, do đó đề nghị Chính phủ chỉ đạo rà soát và chịu trách nhiệm về tính khả thi của nguồn vốn từ rà soát, sắp xếp lại Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 của Bộ Giao thông vận tải.

Nguồn vốn từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội khoảng 9.620 tỷ đồng. Ủy ban Kinh nhận thấy 3 Dự án đáp ứng các nguyên tắc, tiêu chí quy định tại Điểm 1.2 Khoản 1 Điều 3 của Nghị quyết số 43/2022/QH15 về lựa chọn và phẩn bổ vốn cho các dự án thuộc Chương trình, do đó, việc sử dụng nguồn vốn của Chương trình cho 3 Dự án là phù hợp.

Ngày 4/6/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Thông báo kết luận số 1124/TB-TTKQH, trong đó nhất trí đề xuất của Chính phủ dự kiến bố trí 9.620 tỷ đồng cho 3 dự án này. Đồng thời, đề nghị Chính phủ cần tổng hợp, cập nhật 3 Dự án vào Danh mục các dự án sử dụng nguồn vốn của Chương trình để sớm trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi phân bổ vốn theo quy định.

Nguồn tăng thu, cắt giảm, tiết kiệm chi ngân sách Trung ương năm 2021 khoảng 13.796 tỷ đồng, Uỷ ban Kinh tế nhận thấy đề xuất bố trí nguồn tăng thu, cắt giảm, tiết kiệm chi ngân sách trung ương năm 2021 cho 3 Dự án này là phù hợp quy định Luật Ngân sách Nhà nước, do đó, nhất trí với đề xuất của Chính phủ. Ngày 4/6/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Thông báo kết luận số 1124/TB-TTKQH, trong đó, nhất trí đề xuất của Chính phủ dự kiến bố trí 13.796 tỷ đồng cho 3 Dự án này.

Có ý kiến cho rằng, việc sử dụng nguồn tăng thu, cắt giảm, tiết kiệm chi ngân sách trung ương cho 3 Dự án thì khả năng giải ngân hết số vốn trong năm 2022, là khó khả thi, do đến nay các Dự án chưa được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, vì vậy đề nghị Chính phủ báo cáo, làm rõ, tính toán khả năng giải ngân để bảo đảm thời hạn sử dụng nguồn vốn này theo quy định, đồng thời, cam kết và chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, bảo đảm, tiến độ, chất lượng của 3 Dự án.

Về nguồn vốn ngân sách địa phương, tham gia đầu tư 3 Dự án khoảng 8.358 tỷ đồng để tham gia khoảng 50% chi phí giải phóng mặt bằng các dự án thành phần. Theo quy định của pháp luật, khi quyết định chủ trương đầu tư phải quyết định tổng mức vốn và cơ cấu vốn. Đến nay, đã có Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh các tỉnh cam kết bố trí vốn cho 3 Dự án. Để bảo đảm tiến độ, chất lượng cho các Dự án, đề nghị các địa phương cam kết chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc bố trí nguồn ngân sách địa phương cho 3 Dự án.

Về tiến độ hoàn thành Dự án, một số ý kiến cho rằng việc triển khai thực hiện nhiều dự án đường cao tốc với quy mô yêu cầu kỹ thuật phức tạp trong cùng một thời gian ngắn sẽ cần một nguồn lực rất lớn, trong khi các địa phương được giao triển khai thực hiện 3 Dự án cũng chưa có kinh nghiệm về tổ chức thực hiện dự án đường cao tốc.

Do đó, Ủy ban Kinh tế nhận thấy việc triển khai 3 Dự án sẽ gặp khó khăn trong việc bảo đảm tiến độ, chất lượng, vì vậy, đề nghị cần phải đánh giá một cách đầy đủ hơn về khả năng giải ngân, hấp thụ vốn, sự cân đối và hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, năng lực quản lý, thi công để có giải pháp kịp thời, đồng bộ. Chính phủ và các địa phương cần cam kết trách nhiệm tổ chức thực hiện bảo đảm hiệu quả, tiến độ, chất lượng cho các Dự án này và các dự án quan trọng khác cùng được triển khai, đồng thời cần tăng cường vai trò của Bộ Giao thông vận tải trong việc tổ chức thực hiện.

Về thu hồi vốn đầu tư, Chính phủ dự kiến sau khi các Dự án này hoàn thành sẽ thực hiện nhượng quyền thu phí để thu hồi vốn hoàn trả vào ngân sách Nhà nước, tuy nhiên, đề nghị làm rõ cơ chế hoàn trả đối với tỷ lệ vốn góp của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Đồng thời, đến nay cơ chế nhượng quyền thu phí, tổ chức thu phí các dự án đường cao tốc do Nhà nước đầu tư vẫn chưa được ban hành theo quy định. Vì vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị, cần khẩn trương rà soát, sửa đổi, hoàn thiện quy định pháp luật về thu phí để bảo đảm thực hiện thành công việc nhượng quyền thu phí.

Thanh Tùng-Khương Trung