Nhiệt điện Quảng Ninh gắn sản xuất với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững

Doanh nghiệp - doanh nhân - Ngày đăng : 08:56, 12/10/2021

(TN&MT) - Đi vào hoạt động chính thức từ năm 2010, sau hơn một thập kỷ đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh Công ty CP Nhiệt điện Quảng Ninh đứng chân trên địa bàn TP.Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh luôn giữ vững nhịp độ sản xuất gắn liền với bảo vệ môi trường.

Duy trì đà sản xuất, kinh doanh bền vững

Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh thuộc Công ty CP Nhiệt điện Quảng Ninh (QTP) thuộc Tổng công ty Phát điện 1, Tập đoàn Điện lực Việt Nam có tổng công suất thiết kế là 1.200MW, gồm 4 tổ máy 300MW, được chia làm 2 giai đoạn: Dự án nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh 1 và Dự án nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh 2.

Tổng mức đầu tư của nhà máy là hơn 1 tỷ USD, trong đó, tổng mức đầu tư giai đoạn 1 là 645 triệu USD, giai đoạn 2 là 582 triệu USD. Sản lượng điện thiết kế là 7,2 tỷ KWh/năm, tương ứng số giờ vận hành công suất đặt 6.000 giờ/năm.

Toàn cảnh Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh

Hơn 10 năm đi vào hoạt động chính thức, Công ty CP Nhiệt điện Quảng Ninh luôn duy trì, giữ vững nhịp độ sản xuất, kinh doanh, từng bước khẳng định vị trí, thương hiệu của mình.

Có được những kết quả trên, trong những năm vừa qua, Công ty đã có rất nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá dây chuyền sản xuất, mang lại hiệu quả cao về giảm sức lao động, giảm chi phí vật tư thay thế. Các sáng kiến, cải tiến đã góp phần nâng cao hiệu suất vận hành dây chuyền thiết bị và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.

Những năm qua, Công ty CP Nhiệt điện Quảng Ninh luôn quan tâm, chú trọng ứng dụng chuyển đổi số vào hoạt động sản xuất kinh doanh với mục tiêu ứng dụng CNTT trong tất cả các lĩnh vực, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, phát huy tinh thần sáng tạo trong đổi mới khoa học, công nghệ, ứng dụng CNTT trong điều hành, quản trị tại tất cả các phòng ban của doanh nghiệp.

Đồng thời, Công ty triển khai ứng dụng hiệu quả các phần mềm dùng chung của Tập đoàn Điện lực Việt Nam để quản lý kỹ thuật, nhân sự, tài chính, thị trường điện và văn phòng điện tử. Xây dựng phần mềm quản lý hợp đồng đảm bảo tính chính xác, tránh trùng lập, thuận tiện trong trích xuất số liệu, tra cứu thông tin, giúp kết nối trực tiếp các số liệu vận hành của nhà máy với các đơn vị trong EVN, giảm tình trạng các báo cáo trùng lặp nhau. Những năm qua, Công ty đã triển khai ứng dụng hơn 20 phần mềm CNTT, đáp ứng được tính thiết thực, giúp tăng hiệu quả công việc, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Vận hành viên điều hành sản xuất tại Phòng điều khiển trung tâm

Trong vòng 10 năm (2010- 2020) đi vào hoạt động chính thức, Nhà máy đã sản xuất tổng cộng 54,84 tỷ kWh điện và cung cấp lên lưới điện Quốc gia 50,05 tỷ kWh điện. Tính chung toàn giai đoạn 2010- 2020, Nhà máy đã đóng góp 2,69% sản lượng điện cho toàn hệ thống điện Quốc gia góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của cả nước trong giai đoạn 2010- 2020.

Chỉ tính riêng sản lượng điện sản xuất 9 tháng năm 2021 đã đạt 5,375 tỷ kWh (cao hơn 1,1% so với cùng kỳ năm 2020; cao hơn 4,7% so với dự kiến kế hoạch sản lượng điện 9 tháng đầu năm 2021), bằng 74,9% kế hoạch năm 2021 (7,172 tỷ kWh). Doanh thu 9 tháng đầu năm 2021 đạt 6.272,44 tỷ đồng, đạt 75,4% so với kế hoạch năm 2021.

Tổng doanh thu của Công ty từ khi thành lập đến nay là 69.333 tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước 3.023 tỷ đồng với thu nhập bình quân của người lao động là 18,15 triệu đồng/người/tháng.

Đồng thời, Công ty đã thu hút và tạo việc làm cho gần 1.000 lao động địa phương và khu vực, 100% lao động tuyển dụng được Công ty ký hợp đồng lao động, bố trí việc làm thường xuyên, được tham gia BHXH, BHYT, BHTN đầy đủ, có mức thu nhập và đời sống được cải thiện qua từng năm. Cùng với đó, Công ty còn quan tâm chăm lo, nâng cao đời sống cho NLĐ như bố trí khu nhà ở cho CBCBNV, phối hợp ngành giáo dục địa phương xây dựng điểm trường mẫu giáo tại Khu tập thể Công ty, xây dựng Khu thể thao rèn luyện sức khỏe cho công nhân, người lao động.

Phát triển sản xuất gắn với bảo vệ môi trường

Nhiều năm trước, QTP cũng lâm vào tình trạng giống như nhiều công ty nhiệt điện đang gặp phải khó khăn về xử lý, tiêu thụ tro xỉ thải ra trong quá trình sản xuất điện. Nhưng nhờ chủ động triển khai các giải pháp, đến nay Công ty CP Nhiệt điện Quảng Ninh đang giải quyết tốt bài toán về tiêu thụ tro xỉ.

Theo đó, bãi xỉ của QTP rộng 160 ha được thiết kế 3 giai đoạn đủ sức lưu chứa toàn bộ lượng tro, xỉ phát sinh trong quá trình sản xuất điện đến hết đời dự án (25 năm); sức chứa sau giai đoạn 2 (đã xây dựng) là 6,95 triệu m3, tương đương 9,73 triệu tấn tro xỉ. Tuy nhiên, theo chỉ đạo của Chính phủ và EVN và của tỉnh Quảng Ninh thì là lượng tồn trữ tại bãi chứa của nhà máy nhiệt điện nhỏ hơn tổng lượng thải của 2 năm sản xuất.

Cán bộ công nhân viên Công ty tham gia Tết trồng cây năm 2021

Những năm qua, hoạt động xử lý tro xỉ thải của QTP được vận hành đúng quy trình nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường. Với sản lượng điện sản xuất trung bình hơn 7 tỷ kwh/năm, lượng tiêu hao than trung bình hàng năm từ 2,9 đến 3 triệu tấn than cám. Như vậy lượng tro, xỉ theo công nghệ của nhà máy thì hỗn hợp tro, xỉ được thải ra ở trạng thái ướt, vận chuyển hỗn hợp chất thải này từ nhà máy tới bãi thải được thực hiện qua hệ thống bơm và đường ống, các vị trí xả được bố trí theo thiết kế của bãi xỉ.

Trong mặt bằng bãi thải chứa tro xỉ được QTP thiết kế hệ thống bơm tái tuần hoàn, thu nước lắng trong tại bãi thải xỉ, bơm cấp về nhà máy dùng cho quá trình bơm tống xỉ phát sinh trong quá trình sản xuất điện lên bãi chứa.

Ông Ngô Sinh Nghĩa, Tổng Giám đốc Công ty CP Nhiệt điện Quảng Ninh cho biết, Nhà máy Nhiệt điện Quảng Ninh có công suất thiết kế 1.200MW, sử dụng công nghệ lò than phun tiên tiến, bãi xỉ thiết kế để chứa xỉ khoảng 25 năm, khối lượng xỉ hiện có tại bãi xỉ khoảng 4 triệu m3, khối lượng xỉ phát sinh hàng tháng khoảng 7.000 m3/tháng.

Dàn xe chở tro xỉ luôn được rửa sạch lốp trước khi ra khỏi bãi chứa xỉ đảm bảo môi trường

Những năm đầu đi vào hoạt động, việc tiêu thụ xỉ của QTP gặp không ít khó khăn do thời gian khi bắt đầu vận hành, Nhà máy thực hiện chuyển xỉ ướt lên bãi xỉ bằng nước mặn, dẫn đến khối lượng xỉ tồn trên hồ nhiễm mặn. Nhà máy đã điều chỉnh quy trình thải xỉ tuần hoàn (sử dụng nước tự nhiên), tuy nhiên phải có thêm thời gian để thau lọc hoàn toàn xỉ nhiễm mặn; việc vận chuyển khó khăn do yếu tố địa hình dẫn đến chi phí vận chuyển cao, rất khó khăn trong việc tiêu thụ. Vì vậy dẫn đến khối lượng xỉ tồn trong bãi xỉ rất lớn, các đơn vị thu mua, tiêu thụ đơn lẻ chỉ tiêu thụ được với khối lượng rất nhỏ, không đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

Để giải quyết những tồn tại của việc tiêu thụ tro, xỉ theo chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền, ngay từ cuối năm 2020, QTP đã chủ động làm việc với các đơn vị nhỏ lẻ đang thực hiện hợp đồng ngắn hạn tiêu thụ xỉ để thông báo, trao đổi và thống nhất với chủ trương chung về việc tổ chức mời xử lý, tiêu thụ xỉ để tìm kiếm đối tác có đủ năng lực xử lý, tiêu thụ toàn bộ khối lượng xỉ tại bãi chứa.

Cùng với đó, QTP đã xây dựng bộ hồ sơ để mời tiêu thụ tro xỉ đảm bảo minh bạch, công khai nhằm tìm được đối tác có tiềm năng chiến lược, ổn định và lâu dài trên tinh thần không lấy mục tiêu kinh tế mà lấy mục đích tiêu thụ nhanh số tro xỉ tồn dư. Kết quả Công ty CP kinh doanh cảng Hạ Long là đơn vị đáp ứng các yêu cầu của hồ sơ, có đơn giá thu mua cao nhất.

Tổng Giám đốc Công ty CP Nhiệt điện Quảng Ninh, Ngô Sinh Nghĩa khẳng định, việc Công ty CP kinh doanh cảng Hạ Long được lựa chọn với số điểm cao nhất là doanh nghiệp này có hệ thống cảng, bến thuận lợi tiêu thụ tro xỉ vì doanh nghiệp này có kho chứa lên tới 8,5ha, năng lực tiêu thụ trên 100 ngàn m3/tháng; các thủ tục liên quan đến cung đường vận chuyển, công tác bảo vệ môi trường khi vận chuyển đều được doanh nghiệp phối hợp đảm bảo tuân thủ đầy đủ.

Cảng chứa tro xỉ của Công ty CP kinh doanh cảng Hạ Long đáp ứng năng lực chứa tro xỉ trước khi đưa đi tiêu thụ

Ông Lê Quang Trung, đại diện Công ty CP kinh doanh cảng Hạ Long, cho biết, quá trình triển khai việc vận chuyển tro xỉ gặp vướng mắc do Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) chưa đồng ý cho sử dụng đoạn đường nội bộ để vận chuyển. Để giải quyết vấn đề này, doanh nghiệp phối hợp chặt chẽ với QTP đã tích cực làm việc với TKV và các bên liên quan để thống nhất thỏa thuận, cho phép được sử dụng đoạn đường nội bộ của TKV để vận chuyển xỉ trên cơ sở Công ty CP kinh doanh cảng Hạ Long phải trả phí, nên đã được chấp thuận.

Cùng với đó, Công ty làm việc với các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Ninh, TP.Hạ Long để được vận chuyển xỉ qua QL279 trên cơ sở đảm bảo các quy định nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường, đến nay phương tiện vận chuyển tro xỉ lưu thông thuận tiện.

Với sự chủ động, linh hoạt tìm kiếm đối tác đủ năng lực vận chuyển, tiêu thụ tro xỉ theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ và tỉnh Quảng Ninh là đẩy nhanh việc tiêu thụ tro xỉ, không để tồn đọng kéo dài, đến nay QTP đã giải được bài toán về tiêu thụ tro xỉ, góp phần hài hòa giữa phát triển sản xuất, kinh doanh gắn với công tác bảo vệ môi trường.

Phạm Hoạch