Bộ TN&MT thông tin về Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020

Ngành TN&MT - Ngày đăng : 21:16, 22/09/2021

(TN&MT) - Vừa qua, một số phương tiện thông tin đại chúng đã quan tâm, đăng tải ý kiến của một số tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp đối với Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 (Dự thảo Nghị định) và cho rằng sẽ làm tăng gánh nặng, chi phí về môi trường cho doanh nghiệp.

Về vấn đề này, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) xin thông tin, làm rõ các nội dung như sau:

Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020 được Quốc hội thông qua ngày 17/11/2020 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022 có nhiều quy định nhằm cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính (TTHC), giảm thời gian và chi phí tuân thủ của doanh nghiệp; thu hẹp đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường (tập trung vào các dự án lớn thuộc nhóm I và dự án nhóm II có yếu tố nhạy cảm về môi trường như xả thải vào nguồn nước cấp sinh hoạt, trong khu bảo tồn thiên nhiên, rừng, di tích lịch sử văn hóa…); tích hợp 07 giấy phép, xác nhận vào 01 giấy phép môi trường (GPMT); phân loại dự án đầu tư theo các tiêu chí về môi trường nhưng bảo đảm đồng bộ, thống nhất với pháp luật về đầu tư công, đầu tư, xây dựng và pháp luật liên quan; kiểm soát chặt chẽ dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao; cắt giảm cơ chế “xin- cho”, chuyển từ chủ yếu tiền kiểm sang chủ yếu hậu kiểm; cụ thể hóa nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”; đưa chính sách môi trường của Việt Nam hài hòa tiệm cận với pháp luật quốc tế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới,...

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ TN&MT đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức và chuyên gia xây dựng Dự thảo Nghị định và đăng tải lấy ý kiến rộng rãi trên cổng thông tin điện tử của Chính phủ và của Bộ TN&MT từ ngày 15/6/2021. Dự thảo Nghị định có nhiều quy định liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, do đó Bộ TN&MT đã chú trọng lấy ý kiến các hiệp hội, doanh nghiệp thông qua các hoạt động như: mời một số hiệp hội doanh nghiệp trực tiếp tham gia Ban soạn thảo, Tổ biên tập; phối hợp Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức hội thảo tham vấn riêng ý kiến của các hiệp hội, tổ chức và doanh nghiệp; tổ chức một số hội thảo chuyên đề tham vấn các doanh nghiệp về một số nội dung liên quan như trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu trong việc thu gom, tái chế bao bì, sản phẩm (EPR). Đặc biệt, ngày 30/8/2021, Bộ đã tiếp tục tổ chức buổi làm việc với các doanh nghiệp về các nội dung được nhiều doanh nghiệp quan tâm; trên cơ sở đó, đã tiếp thu nhiều ý kiến góp ý. Nội dung mà báo chí đăng tải ý kiến của một số doanh nghiệp là dựa trên bản Dự thảo Nghị định tại buổi làm việc ngày 30/8/2021 nói trên, chưa phải là bản mới nhất đã tiếp thu, hoàn thiện, cụ thể:

Về cải cách TTHC trong lĩnh vực môi trường: Dự thảo Nghị định đã bám sát, cụ thể hóa chủ trương cải cách TTHC theo quy định của Luật BVMT 2020; trong đó, đã giảm 18 TTHC so với quy định hiện hành (giảm 34%); tích hợp 07 loại giấy phép, xác nhận gồm: Giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT, Giấy xác nhận đủ điều kiện về BVMT trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, Giấy phép xả khí thải công nghiệp, Giấy phép xử lý chất thải nguy hại (CTNH), Giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, Giấy phép xả nước thải vào công trình thuỷ lợi, Sổ đăng ký chủ nguồn thải CTNH vào 01 GPMT. Như vậy, nếu như trước đây thay vì phải thực hiện nhiều giấy phép đơn lẻ thì theo Dự thảo Nghị định, doanh nghiệp chỉ cần thực hiện 01 thủ tục là đề nghị cấp GPMT.

- Về đối tượng đánh giá tác động môi trường (ĐTM), cấp GPMT: Một số hiệp hội, báo chí cho rằng trước đây, chỉ có các dự án gây ô nhiễm đến môi trường (nhóm I) mới phải làm ĐTM và xin GPMT, nhưng với quy định mới thì các dự án và nhà máy nhóm I và nhóm II kể cả đã hoạt động cũng phải làm ĐTM và xin GPMT là không có cơ sở. Về vấn đề này, Bộ TN&MT thông tin thêm như sau:

Khoản 1 Điều 30 Luật BVMT quy định đối tượng phải thực hiện ĐTM là dự án nhóm I và nhóm II có yếu tố nhạy cảm về môi trường như xả thải vào nguồn nước cấp sinh hoạt, đầu tư trong khu bảo tồn thiên nhiên, rừng, di tích lịch sử văn hóa…; Điều 39 Luật BVMT quy định đối tượng phải có GPMT gồm:

“1. Dự án đầu tư nhóm I, nhóm II và nhóm III có phát sinh nước thải, bụi, khí thải xả ra môi trường phải được xử lý hoặc phát sinh chất thải nguy hại phải được quản lý theo quy định về quản lý chất thải khi đi vào vận hành chính thức.

2. Dự án đầu tư, cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp hoạt động trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành có tiêu chí về môi trường như đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này.”.

Như vậy, quy định về đối tượng phải thực hiện ĐTM và GPMT trong Dự thảo Nghị định là đúng quy định của pháp luật.

- Về trình tự, thủ tục cấp GPMT: Dự thảo Nghị định mới (bản cập nhật đến ngày 16/9/2021 và gửi Bộ Tư pháp thẩm định) đã tiếp thu nhiều ý kiến của các hiệp hội, doanh nghiệp tại buổi làm việc ngày 30/8/2021 theo hướng đơn giản hóa nhiều quy định về hồ sơ, trình tự đề nghị cấp GPMT như: chỉnh sửa nội dung báo cáo đề xuất cấp GPMT đơn giản hơn, phù hợp với từng đối tượng được cấp GPMT, trong đó chỉ yêu cầu các thông tin liên quan đến các công trình BVMT đã hoàn thành, kết quả thanh tra, kiểm tra, quan trắc môi trường, ...; bỏ trình tự về thông báo việc nộp phí thẩm định cấp GPMT; đơn giản hóa quy trình rà soát tính hợp lệ của hồ sơ theo hướng chỉ thực hiện 01 lần (theo Dự thảo cũ thì thực hiện 02 lần khi tiếp nhận hồ sơ và khi thành lập đoàn kiểm tra). Về thành phần hồ sơ chỉ yêu cầu báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc tài liệu tương đương đối với dự án đầu tư không thuộc đối tượng thực hiện ĐTM (đối với dự án đã có báo cáo ĐTM hoặc cơ sở đang hoạt động thì không phải nộp bất cứ tài liệu gì ngoài văn bản đề nghị và báo cáo đề xuất cấp GPMT; đối với trường hợp điều chỉnh GPMT thì chỉ phải nộp văn bản đề xuất điều chỉnh). Quy trình cấp GPMT cũng được quy định đơn giản hóa theo tính chất của dự án, như trường hợp các dự án không có công trình xử lý chất thải phải vận hành thử nghiệm và trường hợp điều chỉnh GPMT thì được thực hiện trên môi trường điện tử thông qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trong thời gian không quá 15 ngày (rút ngắn 30 ngày đối với trường hợp thuộc thẩm quyền cấp GPMT của cấp bộ và 15 ngày đối với trường hợp thuộc thẩm quyền cấp GPMT của cấp tỉnh, cấp huyện so với thời hạn theo quy định của Luật BVMT 2020); tăng cường thực hiện TTHC trên môi trường điện tử theo quy định của Chính phủ.

Ý kiến cho rằng phần lớn doanh nghiệp phải trải qua 02 lần thẩm định và 02 lần kiểm tra thực địa (khi thẩm định ĐTM và khi thẩm định, cấp GPMT) là không phản ánh đúng nội dung của Luật BVMT 2020 cũng như quy định chi tiết nội dung này trong Dự thảo Nghị định. Theo quy định tại khoản 4 Điều 34 Luật BVMT 2020, trong trường hợp cần thiết cơ quan thẩm định báo cáo ĐTM mới tổ chức khảo sát thực tế khu vực dự kiến triển khai dự án để phục vụ công tác thẩm định ĐTM, đây không phải là hoạt động kiểm tra. Đối với việc cấp GPMT, Dự thảo Nghị định cũng chỉ quy định trong trường hợp cần thiết đối với các dự án thuộc nhóm I, nhóm II, cơ quan cấp GPMT mới thành lập đoàn kiểm tra.

Theo quy định của Luật BVMT và Dự thảo Nghị định, các dự án xây dựng cầu, đường không thuộc đối tượng phải có GPMT, do đó ý kiến cho rằng “các dự án này không thể cấp được GPMT vì không có công trình xử lý chất thải” là chưa đúng.

Về quan trắc chất thải: Dự thảo Nghị định đến ngày 16/9/2021 gửi Bộ Tư pháp thẩm định đã được tiếp thu, chỉnh lý theo nhiều ý kiến góp ý của các hiệp hội, doanh nghiệp. Theo đó, đã không quy định mức xả thải càng lớn thì phải thực hiện tần suất quan trắc định kỳ càng nhiều (6 hoặc 12 lần/năm); thay vào đó, quy định tần suất quan trắc thực hiện như quy định hiện hành nhưng chỉ áp dụng đối với nguồn nước thải có lưu lượng xả thải lớn (trên 200 m3/ngày đối với loại hình gây ô nhiễm và trên 500 m3/ngày đối với loại hình khác) và nguồn khí thải có lưu lượng xả thải lớn (trên 50.000 m3/giờ…). Đặc biệt, đối với các dự án, cơ sở thực hiện tốt công tác BVMT trong 03 năm liên tiếp với kết quả quan trắc chất thải đạt QCVN và kết quả thanh tra, kiểm tra không vi phạm hành vi xả thải vượt QCVN thì được miễn thực hiện quan trắc định kỳ trong thời hạn của GPMT.

Về đối tượng phải quan trắc tự động, liên tục, Dự thảo đã tiếp thu ý kiến góp ý, hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua đại dịch Covid- 19 và chỉnh lý theo hướng lùi thời gian phải hoàn thành lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục đối với tất cả các trường hợp đến hết ngày 31/12/2024. Đối với các trường hợp đã lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục theo quy định thì được miễn thực hiện quan trắc định kỳ trong thời gian này. Từ ngày 01/01/2025, dự án, cơ sở đã lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục với các thông số ô nhiễm đặc trưng của nguồn thải thì được miễn thực hiện quan trắc chất thải định kỳ. Kế thừa quy định hiện hành quy định mức lưu lượng xả nước thải từ 500 m3/ngày trở lên đối với trường hợp thuộc loại hình sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và từ 1.000 m3/ngày trở lên đối với các trường hợp còn lại. Đặc biệt, theo lộ trình Chính phủ quy định và với đặc trưng riêng của các thiết bị xả, bụi khí thải, trước mắt yêu cầu các dự án, cơ sở có phát sinh bụi, khí thải với lưu lượng rất lớn (trên 100.000m3/giờ) thực hiện quan trắc tự động, liên tục; các trường hợp xả bụi, khí thải lớn (từ 50.000m3/giờ đến dưới 100.000m3/giờ) nếu thực hiện lắp đặt hệ thống quan trắc, tự động liên tục thì được miễn thực hiện quan trắc định kỳ.

Ngoài ra, đã bổ sung quy định chuyển tiếp để bảo đảm công bằng cho các trường hợp đã lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục theo quy định hiện hành (được miễn thực hiện quan trắc định kỳ nếu tiếp tục duy trì hệ thống này).  

Về quy định các cơ sở chế biến thủy sản thuộc Mục III danh mục loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường: Đây không phải là quy định mới của Dự thảo Nghị định mà đã được kế thừa quy định của Nghị định số 40/2019/NĐ-CP của Chính phủ và đã được triển khai thực hiện ổn định cho đến nay. Quy định này xuất phát từ lý do đặc thù của loại hình chế biến thủy sản thường phát sinh nước thải có hàm lượng chất ô nhiễm hữu cơ rất cao, lưu lượng xả thải lớn, vị trí sản xuất thường nằm ở khu vực ven sông, ven biển và nơi có nhiều cư dân, ngư dân sinh sống, nước thải có nguy cơ gây phú dưỡng, ảnh hưởng đến môi trường và các hệ sinh thái ven sông, ven biển; thông số ô nhiễm amonia có tính độc cao đối với các loài sinh vật nên các quy chuẩn, tiêu chuẩn kiểm soát chất lượng nước cấp ở Việt Nam cũng như trên thế giới đều có kiểm soát chặt chẽ các thông số chất ô nhiễm liên quan đến Nitơ do ảnh hưởng đến sức khỏe con người khi sử dụng. Ngoài ra, các cơ sở chế biến thủy sản thường phát sinh mùi hôi, khó xử lý và kiểm soát gây ảnh hưởng đến môi trường không khí xung quanh. Do đó, việc quy định loại hình này thuộc nhóm có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường để có sự kiểm soát chặt chẽ hơn là cần thiết, phù hợp với các quy định của quốc tế; qua đó sẽ tạo thuận lợi cho các sản phẩm chế biến thủy sản của Việt Nam có thể đáp ứng được các yêu cầu về BVMT khi tham gia vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, loại hình này cũng chỉ được xếp vào mục III là nhóm có nguy cơ thấp nhất so với các loại hình thuộc mục I và mục II. 

Về trách nhiệm tái chế, xử lý bao bì, sản phẩm của nhà sản xuất, nhập khẩu (trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu):

- Về tỷ lệ tái chế bắt buộc: Ý kiến cho rằng Dự thảo quy định tỷ lệ tái chế bắt buộc áp dụng ngay ở mức 80-90% là phản ánh chưa đúng nội dung quy định này, có sự hiểu nhầm với tỷ lệ thu hồi tối thiểu của nguyên liệu, vật liệu trong bao bì, sản phẩm. Dự thảo Nghị định hiện nay không quy định cụ thể tỷ lệ tái chế cho từng sản phẩm, bao bì mà chỉ quy định công thức tham chiếu và quy trình xác định tỷ lệ tái chế bắt buộc cho từng giai đoạn. Việc xác định tỷ lệ tái chế cụ thể sẽ do Hội đồng EPR quốc gia (bao gồm các Bộ, đại diện các nhà sản xuất, nhập khẩu và đại diện một số tổ chức, chuyên gia có liên quan) thảo luận, quyết định trên cơ sở công thức tính tỷ lệ tái chế tham chiếu, mục tiêu tái chế quốc gia và tình hình kinh tế-xã hội của từng giai đoạn.

Theo công thức tính tỷ lệ tái chế tham chiếu trong Dự thảo Nghị định thì cao nhất dự kiến là bao bì nhôm, chai PET ở mức 22,5% và thấp nhất là phương tiện giao thông ở mức 1,8%. Tỷ lệ này chỉ bằng 1/3 tỷ lệ tái chế của các quốc gia ở Châu Âu từ những năm 80 và 90 của thế kỷ trước, đối với phương tiện giao thông thì chỉ bằng 1/5 của Châu Âu thời điểm mới bắt đầu áp dụng EPR. Hiện tại, Dự thảo Nghị định quy định mức tăng tỷ lệ tái chế bắt buộc không quá 5% cho 3 năm, như vậy, Việt Nam sẽ mất ít nhất 20-30 năm mới đạt tỷ lệ như các quốc gia ở Châu Âu tại thời điểm này.

Hiện nay Dự thảo Nghị định quy định các nguyên, vật liệu phải thu hồi được tối thiểu là 50%, không phải là tỷ lệ tái chế bắt buộc như đã nêu ở trên. Ví dụ như khi tái chế một chiếc máy tính thì vật liệu nhựa, kim loại, vv.. trong máy tính đó phải được thu hồi tối thiểu là 50% khối lượng của máy tính đó. Tỷ lệ thu hồi này được đặt ra nhằm tối ưu hoá việc tái chế và thu hồi nguyên liệu và đang được Dự thảo Nghị định quy định thấp hơn khoảng 15-30% so với Châu Âu ở giai đoạn bắt đầu áp dụng EPR.

- Về đóng góp tài chính để hỗ trợ tái chế: Đây là nội dung được quy định tại Điều 54 Luật BVMT 2020, không phải là khoản thuế, phí hay lệ phí theo quy định của pháp luật về thuế, phí và lệ phí. Điều 54 Luật BVMT 2020 quy định tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm, bao bì có trách nhiệm tái chế theo tỷ lệ tái chế, quy cách tái chế bắt buộc; trường hợp không tự tổ chức tái chế thì nhà sản xuất, nhập khẩu có thể lựa chọn hình thức đóng góp tài chính vào Quỹ BVMT Việt Nam để hỗ trợ tái chế. Như vậy, về bản chất đây là quy định trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu trong trường hợp không trực tiếp thực hiện tái chế đây, không phải là khoản đóng góp bắt buộc, do đó không thể được coi là một nguồn thu thuế, phí. Việc đóng khoản tiền này sẽ được sử dụng để hỗ trợ cho các hoạt động tái chế liên quan đến các sản phẩm, bao bì của nhà sản xuất, nhập khẩu. Để bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng khoản tiền này, Dự thảo Nghị định quy định nhà sản xuất, nhập khẩu tham gia Hội đồng EPR quốc gia để quyết định và giám sát việc sử dụng khoản tiền này hiệu quả, đúng mục đích.

Thực tiễn hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã triển khai cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) và đều không coi đóng góp tài chính này là nguồn thu ngân sách nhà nước như thuế, phí. Đối với khoản đóng góp này, cơ quan nhà nước chỉ thực hiện giám sát và kiểm tra việc sử dụng để đảm bảo đúng mục đích là hỗ trợ cho hoạt động tái chế.

Trên thực tế, ở Việt Nam đã có nhiều quy định tương tự trong việc áp dụng khoản đóng góp tài chính vào các quỹ giống như trong Luật BVMT 2020, trong đó các khoản đóng góp được thu vào các quỹ để hỗ trợ cho các mục tiêu phát triển và hoạt động quản lý khác nhau. Ví dụ như Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (nay là Luật Lâm nghiệp), Quỹ Phòng chống thiên tai theo Luật Phòng, chống thiên tai, Quỹ Phòng chống tác hại thuốc lá theo Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá và nhiều loại quỹ khác. Các khoản thu này không thuộc về ngân sách, không chỉ giúp giảm gánh nặng ngân sách nhà nước, mà đồng thời tạo ra nguồn tài chính ổn định nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể hiệu quả hơn.

Với tinh thần cầu thị, Bộ TN&MT tiếp tục đăng tải Dự thảo Nghị định đã được tiếp thu, hoàn thiện đến ngày 16/9/2021 gửi Bộ Tư pháp thẩm định trên Cổng thông tin điện tử của Bộ (địa chỉ: www.monre.gov.vn) và mong muốn tiếp tục tiếp nhận được ý kiến của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong quá trình hoàn thiện trước khi trình Chính phủ xem xét, ban hành./.

 

Bộ Tài nguyên và Môi trường