Tìm hướng đi cho nhiệt điện than

Doanh nghiệp - doanh nhân - Ngày đăng : 10:46, 22/02/2021

(TN&MT) - Hiện nay, nhiệt điện than vẫn giữ vai trò quan trọng trong hệ thống điện Việt Nam, nhất là tại các tỉnh phía Nam. Dù ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, Việt Nam vẫn sẽ đầu tư cho nhiệt điện than bởi tính chủ động trong việc đảm bảo nguồn cung điện cho hệ thống. Vấn đề cần quan tâm là phải xử lý môi trường tốt hơn nữa.

Đảm bảo tính ổn định cho hệ thống điện

Dù ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, Dự thảo Quy hoạch điện VIII vẫn giữ vị trí tương đối cho nhiệt điện than với tỷ lệ 27% tổng công suất đặt nguồn điện đến năm 2030 và 17% đến năm 2045. Điều này cho thấy, nhiệt điện than vẫn sẽ là một nguồn cung năng lượng phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong tương lai.

Theo ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng phụ tải điện trên cả nước trung bình trên 10%, đặc biệt tăng mạnh ở các tỉnh, thành phía Nam. Trong khi đó, tiềm năng về thủy điện lớn và vừa lại tập trung chủ yếu ở phía Bắc, miền Trung và gần như đã được khai thác hết.

Năng lượng tái tạo và điện hạt nhân đến trước năm 2030 chưa thể thay thế được sản lượng điện của các nhà máy nhiệt điện than. Vì vậy, hiện nay nhiệt điện than vẫn giữ vai trò quan trọng trong hệ thống điện Việt Nam, nhất là tại các tỉnh phía Nam.

Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2

Thực hiện Quy hoạch điện VII, EVN đã triển khai và đưa vào vận hành một số nhà máy nhiệt điện với công suất lớn để đảm bảo đủ điện cho đất nước. Trong năm 2015 và mùa khô 2016, với tình hình thủy văn khó khăn do hiện tượng El Nino, NMNĐ Duyên Hải 1 và Vĩnh Tân 2 đã gần như được huy động tối đa, với thời gian vận hành đã gần như đạt mức cực đại của các nhà máy nhiệt điện than (xấp xỉ gần 7.000 giờ/năm).

Đặc biệt, trong đợt ngừng cung cấp khí Nam Côn Sơn năm 2016 để bảo dưỡng định kỳ 5 năm/lần từ ngày 9 - 20/9/2016, dù mới đưa vào vận hành thương mại và đang trong giai đoạn bảo hành, mỗi ngày Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 1 đã sản xuất trên 23,2 triệu kWh, góp phần đáng kể vào việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, hạn chế sử dụng nguồn điện chạy dầu giá thành cao, đồng thời đảm bảo đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân, nhất là cho các tỉnh phía Nam.

Theo GS.VS.TSKH Trần Đình Long, không riêng ở Việt Nam, trên thế giới, nhiệt điện than vẫn chiếm xấp xỉ một nửa tổng nguồn (40% - 50%). Có một số nước tỉ lệ này còn cao hơn 50%. Nhiều nước phát triển nhiệt điện than, được xem như là nguồn điện cơ bản của họ.

Về môi trường, trên thế giới, sự ảnh hưởng của nhiệt điện than vẫn là bài toán nan giải, nhất là Trung Quốc. Nước này sử dụng nhiều than nhất thế giới, ngoài việc dùng than cho các nhà máy điện, họ còn dùng than vào các việc khác như: nấu nướng, sưởi ấm bằng những lò đốt thủ công… Ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc, cũng một phần do các nhà máy nhiệt điện than có công nghệ đã cũ kỹ, lạc hậu.

Ngay ở châu Âu, cũng chỉ một số nước có nguồn thủy điện lớn, hay là nước Pháp họ có nguồn điện hạt nhân dồi dào (80% điện hạt nhân), thì nhiệt điện than của họ chiếm tỉ lệ thấp, còn đa số các nước, tỉ lệ nhiệt điện than vẫn cao trong cơ cấu nguồn.

Đối với các nước khu vực châu Á, theo xu thế, điện than cũng sẽ tăng trong thời gian tới. Tuy nhiên, nó phụ thuộc vào điều kiện của mỗi nước và tăng nhiều hay ít. Trừ một số nước phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc và cả Trung Quốc… họ sẽ thay thế các dạng nguồn năng lượng khác bằng điện hạt nhân. Những nước còn lại, ít có điều kiện phát triển điện hạt nhân. Chính vì vậy, tại khu vực châu Á, các nước này vẫn phải phát triển nhiệt điện than.

“Dự tính, lượng than trên thế giới sẽ được khai thác, còn dùng được khoảng vài trăm năm. Song, dùng như thế nào, với công nghệ gì thì các nhà khoa học vẫn đang hướng tới để việc sử dụng than không còn lo ô nhiễm môi trường, trong đó có nhiệt điện than”, ông Trần Đình Long nhấn mạnh.

Giải quyết bài toán môi trường của điện than

Hiện nay, các nhà máy nhiệt điện chạy dầu FO, DO của EVN về cơ bản đáp ứng yêu cầu về phát thải khí theo QCVN22:2009 mà không cần lắp đặt thêm thiết bị khử khí, bụi. Thiết bị bảo vệ môi trường chính trong các nhà máy nhiệt điện than bao gồm: hệ thống lọc bụi tĩnh điện (ESP), hệ thống khử khí NOx, Sox, hệ thống xử lý nước thải hiện đều đã được rà soát và khẩn trương lập các dự án đầu tư để cải tạo nâng cao chất lượng, đáp ứng và đạt cao hơn cả tiêu chuẩn môi trường mới ngày càng khắt khe.

Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 4

Để có được những thành quả này, EVN đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm từ những cố môi trường nhiệt điện than trước đây. Ông Nguyễn Tài Anh cho biết: Năm 2014 tại cụm Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí, trong quá trình khởi động thử nghiệm lò, các hệ thống lọc bụi chưa thể kích hoạt khi công suất chưa đủ nên khói thải ra môi trường chưa được khử bụi. Tháng 3-4/2015, tại bãi thải xỉ của Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 lại tiếp tục xảy ra sự cố phát tán tro bụi ra môi trường xung quanh. EVN đã ngay lập tức bằng mọi giải pháp quyết liệt để xử lý gần như triệt để các vấn đề còn tồn tại.

Không chỉ cải tiến thiết bị, EVN cũng đang nghiên cứu, tìm các đối tác có thể tận dụng tro, xỉ thải ra từ các nhà máy nhiệt điện than để làm VLXD, hoặc các sản phẩm hữu ích khác.

Nhiều ý kiến cho rằng, nhiệt điện than, với công nghệ hiện đại, tiên tiến nhất hiện nay thì nguy cơ ô nhiễm môi trường đã được giải quyết gần như triệt để. Ngày nay, công nghệ xử lý môi trường nhiệt điện than đã đạt đến trình độ rất cao. Than được xử lý ngay từ khi mới nhập vào kho của nhà máy. Bụi than, lưu huỳnh… được xử lý trước khi lên băng chuyền vào lò đốt. Các hệ thống lọc bụi, lọc khí đều đạt ở trình công nghệ rất cao (gần 100%). Loại lò thông số siêu tới hạn, lò tầng sôi kéo dài thời gian đốt, đốt kiệt than, tro xỉ cũng có rất nhiều công nghệ cao, không gây tác hại ảnh hưởng tới môi trường.

Cũng theo GS.VS.TSKH Trần Đình Long, thực tế cho thấy, trên cả nước đã có một số nhà máy nhiệt điện tiên phong áp dụng các công nghệ đảm bảo về môi trường, hình thành những nhà máy xanh - sạch - đẹp như: Nhiệt điện Nghi Sơn 1, Nhiệt điện Duyên Hải, Nhiệt điện Hải Phòng, Nhiệt Điện Vĩnh Tân…

Trong tương lai, công nghệ xử lý môi trường của nhiệt điện than chắc chắn sẽ tốt hơn hiện nay rất nhiều. Tuy nhiên, kèm theo công nghệ cao là suất đầu tư cao, giải pháp này đương nhiên sẽ tác động lên giá điện. Trong bối cảnh giá điện năng lượng tái tạo đang có xu thế giảm dần, nếu chấp nhận việc phát triển nhiệt điện than trong giai đoạn hiện nay và tương lai gần, Việt Nam sẽ cần có các cơ chế chính sách để đảm bảo sự cạnh tranh công bằng giữa các loại hình năng lượng, đặc biệt là về giá bán điện đến tay người tiêu dùng.

PV