Khu vực biển trở thành tài sản giá trị

Biển đảo - Ngày đăng : 11:21, 15/04/2021

(TN&MT) - Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 11/2021/NĐ-CP quy định giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng tài nguyên biển mà Chính phủ vừa ban hành. Đây được xem là một văn bản pháp lý quan trọng để ngành kinh tế có thể sử dụng khu vực biển như một dạng “tài sản”, tăng nguồn vốn và cơ hội đầu tư. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, Phóng viên Báo TN&MT đã có cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Thanh Tùng, Vụ trưởng Vụ Chính sách và Pháp chế, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam.

PV: Xin ông cho biết ý nghĩa thực tiễn của việc ban hành Nghị định 11/2021/NĐ-CP?

Ông Nguyễn Thanh Tùng:

Căn cứ Luật Biển Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 51/2014/NĐ-CP ngày 21/5/2014 quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển. Qua hơn 5 năm thực hiện đã góp phần quan trọng trong việc quản lý, sử dụng khu vực biển đáp ứng yêu cầu khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường biển. Tuy nhiên, Nghị định số 51/2014/NĐ-CP cũng còn một số tồn tại, bất cập, cần sửa đổi, bổ sung các quy định để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Vì vậy, Bộ TN&MT đã xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 11/2021/NĐ-CP ngày 10/2/2021 quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng tài nguyên biển, thay thế Nghị định số 51/2014/NĐ-CP; Nghị định mới có hiệu lực thi hành từ ngày 30/3/2021.

Nghị định số 11/2021/NĐ-CP đã khắc phục các tồn tại, hạn chế trong Nghị định số 51/2014/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung các quy định về phạm vi điều chỉnh; về căn cứ, thời hạn, thẩm quyền giao khu vực biển; về tiền sử dụng khu vực biển… đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan như pháp luật về thủy sản, đầu tư, quy hoạch; thực hiện cải cách hành chính; phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu hội nhập quốc tế; góp phần phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; đưa Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn.

Ảnh minh họa

PV: Việc giao khu vực biển theo quy định của Nghị định 11/2021/NĐ-CP được dựa trên các căn cứ nào? Trên cùng một vùng biển có thể giao cho nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau sử dụng hay không và phí thuê khu vực biển sẽ được tính như thế nào?

Ông Nguyễn Thanh Tùng:

Điều 5 của Nghị định đã quy định việc giao khu vực biển căn cứ vào: (1) nhu cầu sử dụng khu vực biển để khai thác, sử dụng tài nguyên biển của tổ chức, cá nhân, (2) văn bản cho phép khai thác, sử dụng tài nguyên biển của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật, (3) các quy hoạch. Nguyên tắc đầu tiên trong giao khu vực biển là đảm bảo quốc phòng, an ninh, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, lợi ích quốc gia trên biển và phù hợp với các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên. Nghị định 11/2021/NĐ-CP cũng đã quy định việc sử dụng khu vực biển vào mục đích quốc phòng, an ninh không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này.

Trên nguyên tắc đảm bảo phù hợp với quy luật tự nhiên và chức năng sử dụng của khu vực biển theo phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên biển dựa trên tiếp cận hệ sinh thái; đáp ứng yêu cầu khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học biển và hải đảo, Nghị định 11/2021/NĐ-CP quy định, trong một vùng biển có thể giao cho một hoặc nhiều tổ chức, cá nhân thực hiện một hoặc nhiều mục đích sử dụng. Ở đây có hai khái niệm vùng biển và khu vực biển. Khu vực biển là một phần của vùng biển Việt Nam có vị trí, tọa độ, ranh giới, diện tích, độ sâu cụ thể được xác định bởi một hoặc nhiều thành phần bao gồm mặt biển, khối nước biển, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển.

Một vùng biển có thể bao gồm nhiều khu vực biển sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau và giao cho nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau. Ví dụ như từ mặt biển xuống tới 15 m là một khu vực biển và giao nuôi trồng thủy sản; từ 15 m xuống đến mặt đáy biển là một khu vực biển giao cho đặt cáp ngầm và lòng đất dưới đáy biển có thể giao cho việc chôn đường ống chẳng hạn.

Nghị định 11/2021/NĐ-CP đã quy định, trường hợp có nhiều tổ chức, cá nhân được giao các khu vực biển ở trong cùng một vùng biển thì việc thu tiền sử dụng khu vực biển được thực hiện đối với từng tổ chức, cá nhân tương ứng với từng khu vực biển được giao; trường hợp một tổ chức, cá nhân được giao các khu vực biển sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau ở trong cùng một vùng biển thì việc thu tiền sử dụng khu vực biển được thực hiện đối với từng hoạt động sử dụng khu vực biển tương ứng đối với mỗi khu vực biển được giao trong vùng biển đó.

 

PV: Biên độ giá cho thuê khu vực biển khá rộng từ 3 triệu đồng tới 7,5 triệu đồng/ha, có ý kiến cho rằng, như vậy rất khó để xác định giá trị thật khu vực biển được giao, gây thất thu khi trong cùng khu vực giá thuê lại chênh nhau gấp 2 lần, ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?

Ông Nguyễn Thanh Tùng:

Tiền sử dụng khu vực biển là một khoản thu của ngân sách Nhà nước và được quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước. Nghị định 11/2021/NĐ-CP dành hẳn Chương IV quy định về tiền sử dụng khu vực biển; theo đó, tiền sử dụng khu vực biển được xác định căn cứ vào phân loại các hoạt động sử dụng khu vực biển, diện tích khu vực biển được phép sử dụng, thời hạn sử dụng khu vực biển và mức thu tiền sử dụng khu vực biển cụ thể.

Các hoạt động sử dụng khu vực biển phải nộp tiền sử dụng khu vực biển được phân thành 6 nhóm theo mục đích sử dụng quy định tại Khoản 1, Điều 34 Nghị định này. Trong Nghị định quy định khung giá tiền sử dụng khu vực biển từ 3.000.000 đồng/ha/năm đến 7.500.000 đồng/ha/năm ngoại trừ sử dụng khu vực biển để nhận chìm tính theo m3. Đây mới chỉ là quy định về khung giá tiền sử dụng khu vực biển.

Theo quy định của Nghị định, căn cứ khung giá tiền sử dụng khu vực biển theo quy định nêu trên và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, Bộ TN&MT ban hành 5 năm một lần mức thu tiền sử dụng khu vực biển cụ thể đối với từng nhóm hoạt động sử dụng khu vực biển thuộc thẩm quyền giao khu vực biển của Thủ tướng Chính phủ và Bộ TN&MT; UBND cấp tỉnh ban hành 5 năm một lần mức thu tiền sử dụng khu vực biển cụ thể đối với từng nhóm hoạt động sử dụng khu vực biển trên địa bàn tỉnh thuộc thẩm quyền giao khu vực biển của UBND cấp tỉnh. Đây mới là mức thu tiền sử dụng khu vực biển cụ thể để tính khi giao khu vực biển trong các trường hợp cụ thể mà tổ chức, cá nhân phải nộp.

Nghị định cũng quy định, Bộ TN&MT chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ điều chỉnh khung giá tiền sử dụng khu vực biển trong từng thời kỳ cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Một số điểm mới của Nghị định 11/2021/NĐ-CP

+ Nghị định quy định tất cả các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển của các tổ chức, cá nhân có phạm vi từ đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm ra đến hết các vùng biển Việt Nam đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định.

+ Nghị định đã bổ sung, giải thích rõ các khái niệm; lược bỏ phương pháp xác định vùng biển theo phương vĩ tuyến trong Nghị định số 51/2014/NĐ-CP để bảo đảm chiều rộng của vùng biển 3 hải lý, vùng biển 6 hải lý tính từ đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm.

+ Nghị định bổ sung các quy định mới về căn cứ giao khu vực biển, đặc biệt là trong trường hợp chưa có các quy hoạch được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

+ Nghị định quy định đối với dự án đầu tư đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận hoặc quyết định chủ trương đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.

+ Nghị định đã đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền giao khu vực biển cho chính quyền địa phương, mở rộng thẩm quyền của UBND cấp tỉnh.

+ Nghị định bổ sung một số trường hợp được sửa đổi, bổ sung Quyết định giao khu vực biển, trong đó đặc biệt là trường hợp tổ chức, cá nhân đã được giao khu vực biển chuyển nhượng dự án đầu tư gắn với quyền sử dụng khu vực biển…

+ Nghị định bổ sung một chương mới quy định về tiền sử dụng khu vực biển.

Minh Hiếu (thực hiện)