Nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo thiên tai
Biến đổi khí hậu - Ngày đăng : 16:29, 25/01/2021
Nhận thức rõ vai trò và ý nghĩa của công tác dự báo cũng như cảnh báo sớm các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực tới đời sống người dân cũng như phát triển kinh tế - xã hội, những năm qua, công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn luôn được Chính phủ coi trọng.
Bước tiến đáng kể trong dự báo, cảnh báo
Trong giai đoạn 2015 - 2020, nhiều tiến bộ khoa học, trang thiết bị, công nghệ mới đã được triển khai ứng dụng có hiệu quả vào công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn. Công tác dự báo cảnh báo khí tượng thủy văn đã từng bước được hiện đại hóa và hoàn thiện. Nhiều dự án hiện đại hóa công tác dự báo đã được thực hiện nhằm nâng cao năng lực, hình thức và nội dung các bản tin dự báo khí tượng thủy văn.
Ngành đã thực hiện cảnh báo bão sớm trước 5 ngày, dự báo, cảnh báo áp thấp nhiệt đới trước 3 ngày; dự báo, cảnh báo mưa lớn trước 2 - 3 ngày với độ tin cậy khoảng 75%; cảnh báo rét đậm, rét hại trước 2 - 3 ngày với độ tin cậy 80 - 90%. Cảnh báo lũ trên các sông khu vực miền Trung, Tây Nguyên trước 1 - 2 ngày, các sông khu vực Bắc Bộ, Nam Bộ trước 3 - 5 ngày thường đạt 70 - 80%. Cảnh báo các đợt nắng nóng diện rộng trước từ 2 - 3 ngày có độ tin cậy 70%.
Hệ thống ra đa thời tiết tại Quy Nhơn phục vụ quan trắc bão cho khu vực Nam Trung Bộ. |
Đáng chú ý, các bản tin dự báo bão, áp thấp nhiệt đới đã kéo dài thời hạn dự báo đến 3 ngày và cảnh báo đến 5 ngày. Các bản tin dự báo, cảnh báo mưa lớn diện rộng, nắng nóng, không khí lạnh cũng cảnh báo trước từ 2 - 3 ngày và dự báo trước 1 - 2 ngày; nhận định về tình hình hạn hán, xâm nhập mặn sớm và sát với thực tế.
Việc thực hiện dự báo, cảnh báo đã khó, việc đánh giá mức độ tác động, phạm vi ảnh hưởng của các hiện tượng này tới đời sống người dân, kinh tế - xã hội càng khó hơn, do phụ thuộc vào hiện trạng, năng lực ứng phó kịp thời với thiên tai.
GS.TS Trần Hồng Thái, Tổng Cục trưởng Tổng cục Khí tượng thủy văn cho biết, trong 5 năm qua, dù vẫn còn những khó khăn nhưng với nỗ lực và quyết tâm của cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành, ngành Khí tượng thủy văn đã có những bước tiến vượt bậc. Đảng ủy Tổng cục đã tập trung chỉ đạo toàn bộ hệ thống, đặc biệt, các đơn vị trực tiếp tác nghiệp dự báo, cảnh báo đảm bảo dự báo, cảnh báo kịp thời các hiện tượng khí tượng thủy văn nguy hiểm phục vụ công tác phòng chống thiên tai, phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh, của đất nước.
Đặc biệt, trong năm 2019-2020, ngành đã dự báo chính xác các xu thế thời tiết, nhất là tình hình thiếu nước, xâm nhập mặn ở khu vực Trung Bộ và Nam Bộ, qua đó giảm thiệt hại trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ bằng 9,6% so với năm 2016. Ngành đã cảnh báo, dự báo kịp thời, sát diễn biến của 13 cơn bão và một áp thấp nhiệt đới; 21 đợt không khí lạnh; 13 đợt nắng nóng; 18 đợt mưa lớn trên diện rộng; 17 đợt lũ trên phạm vi cả nước.
Trên cơ sở đó, các Bộ, ngành, các lực lượng ở địa phương đã phối hợp để chủ động điều chỉnh các hoạt động kinh tế - xã hội, cơ cấu sản xuất, mùa vụ, triển khai các biện pháp phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra. Công tác dự báo phục vụ Quy trình liên hồ chứa cho 11 lưu vực sông trên toàn quốc; dự báo phục vụ đổ ải vụ Đông Xuân năm 2019-2020 cũng thực hiện tốt.
Hiện đại hóa mạng lưới quan trắc
Hiện đại hóa mạng lưới trạm quan trắc khí tượng thủy văn, đến nay, trên cả nước đã có 782 trạm đo mưa độc lập, 284 trạm khí tượng bề mặt (trong đó, có 181 trạm khí tượng thủ công, 103 trạm tự động), 359 trạm thủy văn (trong đó có 234 trạm thủ công, 125 trạm tự động), 27 trạm khí tượng hải văn, 45 trạm khí tượng cao không, thiết lập mạng lưới hàng trăm trạm quan trắc môi trường kết nối trực tuyến với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường.
Cán bộ Tổng cục Khí tượng - Thủy văn đo lưu lượng nước trong đợt lũ ở miền trung. |
Ngành KTTV đã ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy xây dựng Chính phủ điện tử trên các nền tảng số hóa và dữ liệu lớn. 63 trạm định vị vệ tinh (Cors) đã đưa vào sử dụng để cung cấp các dịch vụ định vị chính xác phục vụ các hoạt động kinh tế, xã hội.
Trung tâm Dữ liệu vùng Đồng bằng sông Cửu Long được xây dựng, cơ sở dữ liệu nền địa lý, bản đồ địa hình quốc gia; cơ sở dữ liệu viễn thám, siêu dữ liệu viễn thám quốc gia; cơ sở dữ liệu quốc gia về quan trắc tài nguyên và môi trường; đưa vào sử dụng cơ sở dữ liệu đất đai ở 192 quận, huyện thị xã.
Trung tâm điều hành thông minh được thiết lập, kết nối, đảm bảo các hoạt động chỉ đạo điều hành thông suốt trong thời gian giãn cách xã hội do tác động của đại dịch COVID-19; tổ chức các hội nghị, diễn đàn của Liên Hợp Quốc, cuộc họp, đàm phán với đối tác quốc tế theo hình thức trực tuyến.
Đan dày mạng lưới đo mưa tự động
Những năm gần đây, diễn biến khí tượng thủy văn ở nước ta ngày càng phức tạp, bất thường trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu. Để phục vụ hiệu quả công tác phòng, chống thiên tai, ngành Khí tượng thủy văn xác định, phải nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo thiên tai, trọng tâm là việc cảnh báo, dự báo sớm và chi tiết.
Tổng Cục trưởng Trần Hồng Thái khẳng định, toàn ngành sẽ tập trung tăng cường công tác dự báo theo hướng hiện đại, tiếp cận định hướng của Tổ chức Khí tượng thế giới thực hiện dự báo tác động của khí tượng thủy văn đến các ngành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của xã hội. Bản tin dự báo thời tiết thể hiện chi tiết đến từng thành phố, thị xã trên toàn quốc.
“Ngành sẽ đồng bộ và hiện đại hóa công nghệ dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, nâng cao chất lượng dịch vụ, thời hạn cảnh báo và dự báo, tự động hóa quá trình tác nghiệp dự báo khí tượng thủy văn”, GS.TS Trần Hồng Thái khẳng định.
Tiếp tục thực hiện Chiến lược phát triển đến năm 2030, tầm nhìn 2045, ngành KTTV sẽ hiện đại hóa mạng lưới quan trắc cho khu vực phía Bắc, vùng núi cao nơi thường xảy ra mưa, bão với cường độ lớn, lũ, lũ quét, sạt lở đất và hiện chưa có trạm quan trắc tự động mang tính chất đồng bộ (Tây Bắc, Việt Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ). Đầu tư hiện đại hóa, tăng cường các trạm quan trắc khí tượng thủy văn, hải văn tự động dọc ven biển, hải đảo, dự kiến khoảng 150 trạm.
Bên cạnh đó, tiếp tục phát triển, đan dày mạng lưới đo mưa tự động, đặc biệt cho vùng núi cao nơi thường xảy ra mưa, lũ, lũ quét, sạt lở đất theo hình thức thuê dịch vụ với số lượng dự kiến khoảng 1.000 điểm đo mưa tự động độc lập. Mạng lưới trạm khí tượng thủy văn trên toàn quốc cần được quản lý chặt chẽ, chỉ đạo xử lý các vấn đề phát sinh trên mạng lưới khí tượng thủy văn quốc gia.