Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) có tính tổng thể, toàn diện, hài hòa và thống nhất
Ngành TN&MT - Ngày đăng : 10:55, 05/11/2020
Sau nhiều lần tiếp thu, chính lý, hoàn thiện Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) sửa đổi (Dự thảo Luật) trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 10 gồm: 16 chương, 174 điều. Dự thảo Luật lần này đã thiết kế một khung chính sách hướng đến việc hình thành đạo luật về BVMT có tính tổng thể, toàn diện và hài hòa với hệ thống pháp luật về kinh tế -xã hội; cải cách mạnh mẽ, cắt giảm trên 40% thủ tục hành chính. Dự thảo Luật có rất nhiều điểm mới được các đại biểu quốc hội cũng như người dân đánh giá cao.
So với Luật BVMT 2014, Dự thảo Luật được bố cục lại, đưa các quy định về bảo vệ các thành phần môi trường lên đầu, thể hiện rõ mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ các thành phần môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân, coi đây là nội dung trọng tâm, quyết định cho các chính sách BVMT khác. Bên cạnh đó, đồng bộ các công cụ quản lý môi trường theo từng giai đoạn của Dự án, từ khâu xem xét chủ trương đầu tư, thẩm định dự án, thực hiện dự án cho đến khi dự án đi vào vận hành chính thức và kết thúc dự án.
Hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ thiên nhiên môi trường. Ảnh: MH |
Coi cộng đồng dân cư là một chủ thể trong công tác BVMT
Luật BVMT hiện hành chưa quy định cộng đồng dân cư là một chủ thể trong công tác BVMT, chưa đẩy mạnh, phát huy nhân tố quan trọng trong công tác BVMT. Do đó, Dự thảo Luật đã bổ sung “cộng đồng dân cư” vào phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng nhằm phát huy hơn nữa vị trí, vai trò của nhóm đối tượng quan trọng này trong công tác BVMT.
Lần đầu tiên, trách nhiệm của Chủ dự án trong việc công khai thông tin, tham vấn Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) được quy định ngay từ khi lập, trình phê duyệt thẩm định Báo cáo ĐTM để lấy ý kiến rộng rãi của người dân, các bên liên quan. Trong đó, quy định rõ kết quả tham vấn cộng đồng dân cư, cơ quan, tổ chức liên quan là thông tin quan trọng để Chủ dự án nghiên cứu đưa ra giải pháp giảm thiểu tác động của dự án đối với môi trường và hoàn thiện Báo cáo ĐTM của dự án. Việc công bố, công khai quyết định phê duyệt kết quả thẩm định Báo cáo ĐTM của cơ quan thẩm định, Báo cáo ĐTM sau khi được phê duyệt của Chủ dự án, hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép môi trường (GPMT) cũng đã được quy định cụ thể trong Dự thảo Luật để phục vụ theo dõi, giám sát, phản biện.
Đây cũng là lần đầu dành một Điều quy định công khai thông tin và sự tham gia của cộng đồng trong phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, trong đó quy định tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư có khả năng bị ảnh hưởng từ sự cố môi trường phải được thông báo về các nguy cơ sự cố và các biện pháp ứng phó sự cố môi trường của các cơ sở xung quanh, được quyền biết, tham gia và giám sát các hoạt động ứng phó sự cố môi trường.
Để ghi nhận, tôn vinh cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có đóng góp tích cực trong hoạt động BVMT, Dự thảo Luật đã bổ sung chính sách về: “Bảo đảm quyền lợi của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đóng góp cho hoạt động BVMT”. Dự thảo Luật cũng đã luật hóa cụ thể, rõ ràng hơn các quyền của cộng đồng dân cư trong BVMT và nội dung Nhà nước hỗ trợ cộng đồng dân cư tham gia BVMT; bổ sung quy định về xây dựng hệ thống trực tuyến tiếp nhận, xử lý và trả lời phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư về BVMT để tạo thuận lợi cho cộng đồng dân cư phát huy được vai trò của mình trong công tác BVMT.
Định hướng cách thức quản lý, ứng xử với chất thải
Dự thảo Luật đã quy định việc thu phí rác thải dựa trên khối lượng, thể tích thay cho việc đổ đồng theo hộ gia đình hoặc đầu người như hiện nay. Cơ chế thu phí này sẽ góp phần thúc đẩy người dân phân loại, giảm thiểu rác thải phát sinh tại nguồn do nếu không thực hiện việc này thì chi phí xử lý rác thải phải nộp sẽ cao. Cơ chế này được Bộ TN&MT nghiên cứu kỹ lưỡng mô hình và kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới. Ví dụ như việc thu phí xử lý rác thải qua hình thức bán bao bì, thiết bị đựng rác hiện đang được Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia phát triển trên thế giới thực hiện rất thành công.
Để bảo đảm tính khả thi của cơ chế, Dự thảo Luật đã đưa ra một số quy định như: Căn cứ điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, UBND cấp tỉnh quyết định việc phân loại cụ thể chất thải rắn sinh hoạt với thời hạn áp dụng chậm nhất là ngày 31/12/2024; Tại các điểm tập kết rác thải, nếu phát hiện việc phân loại không đúng quy định thì đơn vị thu gom, vận chuyển có quyền từ chối thu gom, vận chuyển và thông báo cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, xác định hộ gia đình, cá nhân vi phạm và xử lý nghiêm (thông qua hệ thống camera giám sát); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp vận động việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn; tổ dân phố, cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị xã hội có trách nhiệm giám sát việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt; UBND cấp xã có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ, xử lý hoặc chuyển cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy định…
Ngoài quy định trách nhiệm phân loại chất thải rắn công nghiệp phát sinh từ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, Dự thảo Luật lần đầu tiên đã quy định trách nhiệm mở rộng của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm, bao bì có khả năng tái chế phải thu hồi với tỷ lệ và quy cách tái chế bắt buộc hoặc thông qua hợp đồng dịch vụ hoặc cơ chế đóng góp tài chính để hỗ trợ tái chế sản phẩm, bao bì.
Áp dụng đồng bộ, khoa học tiêu chí Môi trường
Pháp luật hiện hành chưa quy định đồng bộ, thống nhất về đối tượng, nội dung đánh giá sơ bộ tác động môi trường của dự án đầu tư. Luật Đầu tư 2020, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), Luật Xây dựng dẫn chiếu việc thực hiện đánh giá sơ bộ tác động môi trường theo pháp luật về BVMT. Riêng Luật Đầu tư công còn quy định khác nhau về nội dung này đối với dự án có cấu phần xây dựng, dự án không có cấu phần xây dựng. Luật BVMT 2014 cũng đang quy định ĐTM như một công cụ quản lý môi trường cho suốt vòng đời dự án. Bên cạnh đó, quy định về cấp Giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, Giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi và cấp giấy phép, giấy xác nhận về môi trường đang chồng chéo, thiếu thống nhất, gây lúng túng cho doanh nghiệp.
Tiếp thu ý kiến của các Đại biểu Quốc hội, Dự thảo Luật đã đề xuất phương án áp dụng đồng bộ, khoa học tiêu chí Môi trường để sàng lọc, quản lý môi trường đối với các dự án đầu tư, vừa góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, vừa kiểm soát hiệu quả các rủi ro về môi trường, theo đó quy định: Chỉ đối tượng có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao (Nhóm I) mới phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường. Quy định này nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành, gồm: Giảm thủ tục hành chính (TTHC) cho nhiều nhà đầu tư, theo đó các dự án không thuộc Nhóm I sẽ không phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí; không bỏ sót đối tượng là các dự án đầu tư có nguồn vốn tư nhân không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng có nguy cơ tác động xấu đến môi trường ở mức độ cao không được sàng lọc ở giai đoạn này;
Thông qua các tiêu chí Môi trường để phân loại dự án đầu tư sẽ giúp thu hẹp đối tượng phải ĐTM như quy định hiện hành. Thay vào đó là việc cấp GPMT đối với dự án ít có nguy cơ tác động xấu đến môi trường ngay trong giai đoạn nghiệp cứu khả thi; những dự án không phát sinh chất thải cũng sẽ được miễn GPMT.
Bãi bỏ thủ tục cấp Giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, xả nước thải vào công trình thủy lợi mà lồng ghép nội dung này trong GPMT để thống nhất trách nhiệm, thẩm quyền quản lý tổng hợp tài nguyên nước; giảm TTHC cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Dự thảo Luật cũng bổ sung trách nhiệm, thẩm quyền tham gia, phản biện và đồng thuận của cơ quan quản lý công trình thủy lợi ngay từ giai đoạn ĐTM cho đến khi cấp GPMT đối với cơ sở xả nước thải vào công trình thủy lợi nhằm tăng cường công tác phối hợp của các cơ quan.
Xác lập lại đúng vai trò hoạt động quan trắc chất thải, bảo vệ môi trường nước, không khí
Dự thảo Luật không quy định tất cả các doanh nghiệp phải thực hiện quan trắc định kỳ như hiện nay, thay vào đó chỉ những đối tượng có dấu hiệu gian dối trong báo cáo số liệu quan trắc chất thảu tự động, liên tục không đúng thực tế; dấu hiệu vi phạm hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ thuật hoặc khi nguồn tiếp nhận chất thải bị ô nhiễm bất thường thì phải thực hiện quan trắc chất thải trong khoảng thời gian nhất định theo yêu cầu của cơ quan cấp GPMT.
Nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ 4.0 trong giám sát hoạt động xả thải của doanh nghiệp, Dự thảo Luật cũng đã quy định các nguồn thải quy mô lớn, thuộc loại hình công nghiệp nguy cơ gây ô nhiễm môi trường phải quan trắc chất thải tự động, liên tục, có camera theo dõi và truyền dữ liệu, hình ảnh trực tuyến 24/24h về Sở TN&MT địa phương. Các cơ quan quản lý thông qua việc theo dõi, giám sát dữ liệu, hình ảnh của cơ sở truyền về sẽ kịp thời chấn chỉnh khi phát hiện có thông số ô nhiễm vượt quy chuẩn kỹ thuật; trong một số trường hợp cơ quan này sẽ kích hoạt thiết bị lấy mẫu tự động để thu mẫu chất thải của cơ sở để phân tích, làm căn cứ xác định hành vi vi phạm của cơ sở.
Ô nhiễm không khí và môi trường nước mặt đang là vấn đề bức xúc tại các lưu vực sông và đô thị lớn của Việt Nam. Để nâng cao hiệu quả bảo vệ các thành phần môi trường, Dự thảo Luật quy định việc lập và thực hiện Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt, môi trường không khí nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ các thành phần môi trường, quy định về tiêu chí và phân loại khu vực ô nhiễm môi trường đất, quy định nội dung về xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm của UBND cấp tỉnh trong việc xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí; đánh giá, theo dõi chất lượng môi trường không khí và công khai thông tin; cảnh báo cho cộng đồng và triển khai các biện pháp xử lý trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm; tổ chức thực hiện biện pháp khẩn cấp trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ di sản thiên nhiên
Theo Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Công ước di sản thế giới), di sản thế giới được chia làm 2 loại bao gồm: di sản thiên nhiên và di sản văn hóa có các đặc điểm, tiêu chí hoàn toàn khác nhau (tiêu chí của di sản thiên nhiên gắn với các yếu tố tự nhiên, trong đó tiêu chí của di sản văn hóa gắn với yếu tố con người). Việt Nam đã tham gia Công ước nêu trên từ năm 1987, tuy nhiên, hệ thống pháp luật của Việt Nam về quản lý di sản thiên nhiên chưa nội luật hóa đầy đủ và tương thích với nội dung của Công ước này. Các quy định về đối tượng là di sản thiên nhiên của Việt Nam đang được quy định tản mạn trong một số pháp luật chuyên ngành như Luật Đa dạng sinh học, Luật Lâm nghiệp, Luật Thủy sản, thậm chí còn được quy định trong pháp luật về di sản văn hóa…
Để khắc phục các bất cập này, Dự thảo Luật đã đưa ra các quy định về tiêu chí xác lập di sản thiên nhiên dựa trên cơ sở các tiêu chí của quốc tế và thực tiễn điều kiện Việt Nam hiện nay; trong đó, đối với các đối tượng là di sản thiên nhiên đã được quy định trong pháp luật về lâm nghiệp, thủy sản, đa dạng sinh học và di sản văn hóa thì vẫn thực hiện theo các quy định này để tránh xáo trộn, chồng chéo. Đồng thời, quy định việc điều tra, đánh giá, quản lý và BVMT di sản thiên nhiên để bảo vệ, phát huy giá trị bền vững di sản thiên nhiên ở nước ta.