Ghi nhận hơn 60 loại khoáng sản với hàng ngàn điểm mỏ
Khoáng sản - Ngày đăng : 07:39, 05/10/2020
Hơn 60 loại khoáng sản với hàng ngàn điểm mỏ đã được điều tra, đánh giá và thăm dò ở các mức độ khác nhau trên toàn lãnh thổ. Ảnh: Hoàng Minh |
Thành tựu xuất sắc của ngành Địa chất Việt Nam là đã phát hiện và đưa vào thăm dò dầu khí ở đồng bằng Bắc Bộ, vịnh Bắc Bộ, dự báo tiềm năng dầu khí các bể trầm tích quan trọng của đất nước. Đây cũng là cơ sở để ngành Dầu khí Việt Nam tiếp tục phát triển. Sau năm 1955, ngành Địa chất đã tập trung vào việc điều tra, thăm dò mở rộng bể than Quảng Ninh và tất cả các cấu trúc chứa than trên toàn quốc.
Theo đánh giá của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, kết quả dự báo trữ lượng và tài nguyên than đá của Việt Nam ở bể than Quảng Ninh tạo tiền đề cho việc hình thành và phát triển Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, đã tiến hành điều tra, đánh giá tổng thể và đã tính được toàn bộ tài nguyên than phần đất liền bể Sông Hồng ở các cấp 333+334a+334b là 212.676.990 ngàn tấn. Với công nghệ chuyển hóa than thành khí của đối tác Canada tạo tiền đề để khai thác tài nguyên than dưới sâu trong tương lai.
Nhiều năm qua, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã điều tra, đánh giá tài nguyên urani và thăm dò xác định trữ lượng urani ở khu vực bồn trũng Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam, đưa Việt Nam vào nhóm nước có trữ lượng và tài nguyên urani lớn nhất thế giới, phục vụ làm nguyên liệu cho nhà máy điện nguyên tử, đảm bảo an ninh năng lượng lâu dài cho đất nước.
Bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận về nhóm nhiên liệu, công tác điều tra, đánh giá nhóm khoáng sản kim loại cũng có nhiều phát hiện nổi bật. Theo đó, đã phát hiện nhiều vùng mỏ có quy mô tài nguyên lớn như quặng đồng Sin Quyền, Lào Cai; quặng chì - kẽm Chợ Đồn - Chợ Điền, Bắc Kạn; quặng sắt Thạch Khê, Hà Tĩnh; quặng đất hiếm tại Lai Châu, Lào Cai; quặng wolfram đa kim Núi Pháo, Thái Nguyên.
Trong những năm gần đây, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã đánh giá được tổng thể tiềm năng một số khoáng sản kim loại có quy mô lớn, đã xác định được tổng thể tài nguyên cấp 333+334a cho bauxit Tây Nguyên là 1.870.000 ngàn tấn tinh quặng, trong đó cấp 333 là 660.000 ngàn tấn; tổng thể tiềm năng quặng titan sa khoáng dải ven biển Ninh Thuận - Bình Thuận - Vũng Tàu có quy mô lớn.
Ngoài ra, Tổng cục đã có những phát hiện mới về nguồn gốc và dự báo được triển vọng quặng wolfram (sheelit) quy mô lớn trên đới Sông Chảy, bước đầu đã xác định được tài nguyên quặng wolfram + thiếc tại khu vực Suối Ngần, huyện Vị Xuyên, Hà Giang là 61 ngàn tấn và hàng loạt các mỏ, điểm mỏ đang tiếp tục được điều tra, đánh giá tiềm năng.
Về nhóm khoáng sản phi kim loại và khoáng chất công nghiệp, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã xác định vai trò quan trọng của khoáng sản phi kim trong sự phát triển của ngành hóa chất, phân bón, ngành công nghiệp xi măng, gốm sứ và vật liệu xây dựng, ngay từ khi thành lập, ngành địa chất đã tập trung điều tra, đánh giá, thăm dò các loại khoáng sản này.
Đến nay đã xác định được tổng tài nguyên, trữ lượng quặng apatit là 2,6 tỉ tấn quặng phân bố tại tỉnh Lào Cai; công tác đánh giá tiềm năng của đá vôi, đá sét làm nguyên liệu xi măng được thực hiện tại các khu vực thuộc tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình, Hải Dương, Quảng Ninh đã xác định được tổng tài nguyên dự tính trên 40 tỷ tấn đá vôi và trên 7 tỷ tấn đá sét đủ tiêu chuẩn làm nguyên liệu lâu dài cho ngành công nghiệp xi măng Việt Nam.
Đồng thời, đã khoanh định, đánh giá tài nguyên hàng trăm mỏ kaolin, đất sét trắng, felspat, cát trắng, đôlômit, đá ốp lát trên cả nước đảm bảo khả năng cung cấp nguyên liệu ổn định, lâu dài cho sự phát triển của ngành công nghiệp gốm sứ và vật liệu xây dựng.
Đối với nhóm nước khoáng, nước ngầm, theo Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, ông Đỗ Cảnh Dương, công tác lập bản đồ địa chất thủy văn – địa chất công trình đã hoàn thành hơn 56.000 km2 ở tỷ lệ 1:200.000 và 42.500 km2 ở tỷ lệ 1:50.000, điều tra địa chất công trình tỷ lệ 1:50.000 với diện tích 36.340 km2.
Các công tác này tập trung vào một số vùng quy hoạch phát triển kinh tế của Nhà nước như Tây Nguyên, đồng bằng Nam Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, các vùng đồng bằng ven biển. Kết quả là đã phát hiện và xác định trữ lượng nguồn tài nguyên nước dưới đất quy mô lớn, đáp ứng các nhu cầu cấp thiết cho nhu cầu dân sinh, công nghiệp và làm cơ sở để quy hoạch, điều tra, thăm dò khai thác nước dưới đất.
“Ngành Địa chất đã hoàn thành các chương trình điều tra nước miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, vùng sâu Nam Bộ và các đảo. Các chương trình này đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết khó khăn về nước sinh hoạt cho nhân dân tại những vùng đặc biệt khó khăn, nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. Các nguồn nước nóng, nước khoáng đã được tổng hợp, cập nhật và nghiên cứu. Nhiều nguồn nước đã và đang được khai thác sử dụng có hiệu quả, phục vụ nhiều mục đích khác nhau” - Tổng cục trưởng Đỗ Cảnh Dương nhấn mạnh.