Đại ngàn vơi bóng dáng voi: Loay hoay tìm phương kế
Môi trường - Ngày đăng : 16:37, 14/05/2020
Chính sách đã có
Từ những năm 90, theo Quyết định số 1204/NN-LN-QĐ ngày 16/7/1996 của Bộ NN&PTNT, Chương trình hành động bảo tồn voi Việt Nam giai đoạn 1996 - 1998 đã được thực hiện. Tiếp đến là Kế hoạch hành động khẩn trương bảo tồn voi đến năm 2010 theo Quyết định số 733/QĐ-TTg ngày 16/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Sau 5 năm triển khai thực hiện, Kế hoạch này cũng thu được một số kết quả, trong đó, có việc xây dựng hoàn thiện Dự án bảo tồn voi tại các tỉnh có số lượng quần thể voi lớn nhất là Đắk Lắk, Đồng Nai và Nghệ An. Đồng thời, thành lập Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk nhằm hỗ trợ chăm sóc, hỗ trợ sinh sản cho đàn voi.
Tiếp đó, ngày 29/7/2012 về Phê duyệt Kế hoạch hành động khẩn cấp đến năm 2020 để bảo tồn voi ở Việt Nam. Tháng 5/2013, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tổng thể bảo tồn voi Việt Nam giai đoạn 2013 - 2020” tại Quyết định số 763/QĐ-TTg, với tổng kinh phí khái toán 278 tỷ đồng, từ ngân sách Nhà nước và các tổ chức, cá nhân nước ngoài tài trợ. Theo Bộ NN&PTNT, tính đến năm 2018, sau 3 năm thực hiện, Đề án đã đạt được một số kết quả như tình trạng săn bắn, giết hại voi giảm; số lượng cá thể voi có tín hiện phát triển tăng; xung đột voi/người cũng được hạn chế.
Ở cấp địa phương, Đắk Lắk vào cuộc khá sớm, năm 2010, UBND tỉnh phê duyệt Dự án Bảo tồn voi tại Đắk Lắk giai đoạn 2010 - 2015 với tổng kinh phí 61 tỷ đồng. Đến năm 2013, UBND tỉnh phê duyệt “Dự án khẩn cấp bảo tồn voi tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020” với tổng kinh phí gần 85 tỷ đồng.
Cần bảo tồn "linh hồn" của Tây Nguyên |
Nhưng chưa hiệu quả
Đánh giá về những chính sách này, các chuyên gia cho rằng, so với nhiều loài khác, chính sách bảo tồn voi thể hiện rõ cam kết của Nhà nước khi bố trí cả nguồn lực tài chính và con người, nhưng hiệu quả chưa cao vì nhiều nguyên nhân. Trước hết là thiếu dữ liệu đầu vào, hiện, các cơ quan bảo tồn vẫn chưa có số liệu chính xác về quần thể voi Tây Nguyên. Phương pháp thống kê số lượng voi chủ yếu qua quan sát bằng mắt thường hoặc dấu chân và chưa có kinh phí để sử dụng phương pháp phân tích ADN (ước tính trung bình 3.000 USD/mẫu).
Tiếp đó, các chính sách vẫn theo hướng đơn nhất, chưa huy động được sự vào cuộc của chính quyền các cấp từ xã, huyện, tỉnh và đặc biệt của các chủ rừng gồm các Công ty lâm nghiệp, Ban Quản lý các rừng phòng hộ, cộng đồng người dân địa phương. Người dân ở các khu vực có voi sinh sống thường nghèo, sống phụ thuộc vào tài nguyên rừng, canh tác nông nghiệp trong hoặc gần rừng, khó có thể yêu cầu họ phải có ý thức bảo tồn voi khi chưa có chính sách hỗ trợ sinh kế.
Mặt khác, việc phối hợp thực thi chính sách giữa các cơ quan quản lý chưa ăn khớp. Từ khi một quyết định chính sách được ban hành cho tới khi có hiệu lực trong thực tế là một quá trình rất dài và cần rất nhiều thủ tục. Đơn cử, theo Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk, dù được tỉnh chấp thuận cấp kinh phí mua lại một cá thể voi nhà nhưng phải mất nhiều tháng, số tiền mới được giải ngân và khi “đó chủ sở hữu voi không đồng ý bán vì trượt giá”.