Hiệu quả từ việc kiểm soát chặt chẽ nguồn nước lưu vực sông

Tài nguyên nước - Ngày đăng : 22:25, 16/03/2020

(TN&MT) - Xác định được tầm quan trọng của nguồn nước đối với sự phát triển của quốc gia, những năm gần đây các chủ trương, chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên nước đặc biệt là quy định về việc bảo vệ nguồn nước các lưu vực sông được đổi mới, hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển đất nước.

Một góc lưu vực sông Cầu

Các quy định bảo vệ dòng sông khá toàn diện

Theo Cục Quản lý tài nguyên nước, Luật Tài nguyên nước cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã được ban hành hay đang trong quá trình soạn thảo đều có những quy định nhằm bảo vệ các dòng sông một cách khá toàn diện và được thể hiện trong một số nội dung chủ yếu sau: Quản lý tài nguyên nước phải trên nguyên tắc tổng hợp, thống nhất giữa chất lượng và số lượng. Đồng thời, bảo vệ tài nguyên nước là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân và phải lấy phòng ngừa là chính, bảo vệ chất lượng nước và các hệ sinh thái thủy sinh, hạn chế khắc phục ô nhiễm nguồn nước.

Trong Luật cũng đã quy định nghiêm cấm các hành vi đổ chất thải, rác thải, đổ hoặc làm rò rỉ các chất độc hại vào nguồn nước và các hành vi khác gây ô nhiễm nguồn nước; xả nước thải, đưa các chất thải vào vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt; xả nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật vào nguồn nước; xả khí thải độc hại trực tiếp vào nguồn nước; xả nước thải vào lòng đất thông qua các giếng khoan, giếng đào và các hình thức khác nhằm đưa nước thải vào trong lòng đất; gian lận trong việc xả nước thải; xả nước thải trái phép vào nguồn nước.

Điều tra, hiện trạng xả nước thải, khí thải, chất thải vào nguồn nước; phân loại nguồn nước theo mức độ ô nhiễm; xác định khả năng tiếp nhận nước thải của nguồn nước; đánh giá, cảnh báo, dự báo diễn biến bất thường về chất lượng nguồn nước là những hoạt động của điều tra cơ bản tài nguyên nước để thực hiện các nội dung về đánh giá tình hình ô nhiễm nguồn nước mặt, nước dưới đất, nước biển.

Bảo vệ tài nguyên nước là một trong những thành phần của quy hoạch tài nguyên nước, bao gồm việc xác định các khu vực bị ô nhiễm; đánh giá diễn biến chất lượng nước, phân vùng chất lượng nước; xác định phục hồi nguồn nước bị ô nhiễm để bảo đảm chức năng của nguồn nước; xác định hệ thống giám sát chất lượng nước, giám sát xả nước thải vào nguồn nước.

Các nguồn nước phải được thiết lập hành lang để bảo vệ, theo đó, trong hành lang bảo vệ nguồn nước không được xây mới các bệnh viện, cơ sở y tế điều trị bệnh truyền nhiễm, nghĩa trang, bãi chôn lấp chất thải, cơ sở sản xuất hóa chất độc hại, cơ sở sản xuất, chế biến có nước thải nguy hại. Đối với cơ sở đang hoạt động thì phải có biện pháp xử lý, kiểm soát, giám sát chặt chẽ chất lượng nước thải, chất thải trước khi thải ra đất, nguồn nước; cơ sở đang hoạt động gây ô nhiễm nguồn nước phải có giải pháp để khắc phục; trường hợp không khắc phục được thì bị đình chỉ hoạt động hoặc di dời theo quy định của pháp luật.

Chất lượng nước các lưu vực sông đã dần được kiểm soát

Ông Châu Trần Vĩnh (Phó Cục trưởng Cục quản lý tài nguyên nước) cho biết: Với hệ thống văn bản quản lý đầy đủ và toàn diện, thời gian qua, chất lượng nguồn nước các lưu vực sông chính đã và đang dần được kiểm soát về mức độ gia tăng ô nhiễm, đặc biệt là các đoạn sông nhiễm nghiêm trọng mức độ ô nhiễm đang dần được cải thiện như sông Cầu tại tỉnh Thái Nguyên, sông Thị Vải tại tỉnh Đồng Nai, sông Đồng Nai tại các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương.

Chất lượng nguồn nước lưu vực sông Đồng Nai đã và đang được cải thiện đáng kể

Đối với nước thải công nghiệp, trong thời gian gần đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tập trung nguồn lực quản lý, kiểm soát chặt chẽ loại hình nước thải công nghiệp, đặc biệt là nước thải phát sinh từ các Khu công nghiệp (KCN).

Thống kê cho thấy, cả nước hiện có 251 KCN đã đi vào hoạt động có phát sinh chất thải (không tăng so với năm 2017). Hoạt động kiểm soát, giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các KCN đã có chuyển biến tích cực. Cả nước hiện có 221/251 KCN đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường, đạt khoảng 88% (tăng 8% so với năm 2017), trong đó các địa phương có số lượng KCN lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hà Nội, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An, Quảng Ninh, Bắc Ninh... tỷ lệ này đều đạt 100%. Đã có 121/251 KCN lắp đặt thiết bị quan trắc nước thải tự động, liên tục đạt tỷ lệ trên 42%.

Theo đánh giá của Cục quản lý tài nguyên nước, nhìn chung, nhiều địa phương đã chú trọng lựa chọn, thu hút các dự án công nghệ cao, dự án có tỷ lệ đầu tư về môi trường lớn, một số địa phương đã bước đầu thực hiện việc phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường trong quá trình thu hút đầu tư thông qua việc lựa chọn những ngành nghề, dự án đầu tư có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch. Đối với các cơ sở sản xuất, nhà máy riêng lẻ, hầu hết đã và đang được kiểm soát chặt chẽ việc xả nước thải vào nguồn nước thông qua việc quản lý, xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường và cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước.

Tuy nhiên, một thực tế thấy rằng, hiện nay còn chưa kiểm soát được đầy đủ, triệt để các hoạt động gây phát sinh ô nhiễm các dòng sông từ nước thải sinh hoạt, nước thải từ các làng nghề và ô nhiễm từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản.

Tiếp tục hoàn thiện việc kiểm soát, phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước

Ông Châu Trần Vĩnh cho biết, cần phải có phương án phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước khi xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, khu đô thị, khu dân cư tập trung, khu du lịch, vui chơi, giải trí tập trung, tuyến giao thông đường thủy, đường bộ, công trình ngầm, công trình cấp, thoát nước, công trình khai thác khoáng sản, nhà máy điện, khu chứa nước thải và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các công trình khác có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.

Bên cạnh đó, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khai khoáng và các hoạt động sản xuất khác không được xả nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật vào nguồn nước; trường hợp sử dụng hóa chất độc hại thì phải có biện pháp bảo đảm an toàn, không được để rò rỉ, thất thoát dẫn đến gây ô nhiễm nguồn nước.

Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ra sự cố ô nhiễm nguồn nước phải xây dựng phương án, trang bị các phương tiện, thiết bị cần thiết và thực hiện các biện pháp để kịp thời ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước do mình gây ra. Đồng thời, buộc các tổ chức, cá nhân gây ra sự cố ô nhiễm nguồn nước, ngoài việc chấp hành xử phạt vi phạm theo quy định của pháp luật còn có trách nhiệm khắc phục hậu quả ô nhiễm nguồn nước trước mắt, cải thiện, phục hồi chất lượng nước về lâu dài và bồi thường thiệt hại do mình gây ra.

Hoạt động xả nước thải của các tổ chức, cá nhân được quản lý chặt chẽ, thông qua việc cấp giấy phép xả nước thải, trừ trường hợp xả nước thải với quy mô nhỏ và không chứa hóa chất độc hại, chất phóng xạ vào nguồn nước.

Hoạt động cải tạo lòng, bờ, bãi sông, xây dựng công trình thủy, khai thác cát, sỏi và các khoáng sản khác trên sông, hồ không được gây sạt, lở, làm ảnh hưởng xấu đến sự ổn định lòng, bờ, bãi sông, hồ và phải được cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước có thẩm quyền chấp thuận bằng văn bản. Theo ông Vĩnh, cần quy định đối với những dòng sông, đoạn sông bị sạt, lở hoặc có nguy cơ bị sạt, lở bờ, bãi sông, cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên nước cấp tỉnh có trách nhiệm xác định nguyên nhân gây sạt, lở, đề xuất các giải pháp để ngăn ngừa, khắc phục và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, khoanh định khu vực cấm, khu vực tạm thời cấm khai thác cát, sỏi và các khoáng sản khác.

Thúy Hằng