Ngày Xuân, thăm ngôi chùa phát tích 1 trong 3 dòng thiền lớn nhất Việt Nam
Văn hóa - Ngày đăng : 11:08, 26/01/2020
Tọa lạc bên tả ngạn sông Đuống và nằm sát cạnh đền Gióng, chùa Kiến Sơ được phật tử biết đến là một ngôi chùa cổ, nổi tiếng linh thiêng. Tuy nhiên không nhiều biết rằng, nơi đây từng là nơi hoằng pháp của thiền sư Vô Ngôn Thông – người khai sinh ra một trong ba dòng thiền lớn nhất Việt Nam trong suốt 6 thế kỉ (từ thế kỉ VII – XIV) và tạo tiền đề hình thành nên thiền phái Trúc Lâm nổi tiếng sau này.
Theo tài liệu để lại, cách đây vừa tròn 1200 năm (tức là năm Canh Tý, năm 820 - PV) thiền sư Vô Ngôn Thông từ Quảng Châu (Trung Quốc) sang Việt Nam và tu tại chùa Kiến Sơ. Các huyền tích truyền lại đến ngày nay kể rằng, khi đến tu tại chùa, suốt mấy năm liền, mỗi ngày ngoài hai bữa cháo ra, sư đều dành hết thời gian cho việc tu đạo. Hằng ngày, sư quay mặt vào vách thiền định mà không nói năng gì.
Chùa Kiến Sơ hiện nay nằm trên địa phận xã Phù Đổng, giáp đền Gióng |
Mọi người không biết nên không chú ý đến sư. Duy chỉ có một người tên là Lập Đức biết sư không phải người thường, nên ngày ngày giữ lễ và hết lòng chăm sóc. Cảm tấm lòng người Phật tử xứ Nam, sư truyền cho tâm pháp và phương pháp tu tập. Sư đổi pháp hiệu cho Lập Đức là Cảm Thành. Từ đó, dòng thiền Vô Ngôn Thông đã ra đời và sau này có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống phật giáo Việt Nam. Năm 826, thiền sư Vô Ngôn Thông viên tịch, thi thể được hỏa thiêu và thờ ở núi Tiên Du.
Từ khi được truyền vào Việt Nam, dòng thiền này phát triển rất mạnh mẽ, được các tầng lớp từ vua chúa đến dân nghèo tin theo. Dòng thiền này có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa, tư tưởng trong suốt 4 triều đại là Đinh, Lê, Lý, Trần và góp phần tạo nên diện mạo văn hóa Việt.
Trong quá trình phát triển hơn 4 thế kỉ, thiền phái Vô Ngôn Thông truyền được 17 thế hệ với những đại sư mà tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử như: Đa Bảo, Viên Chiếu, Lý Thái Tông, Mãn Giác, Không Lộ ... Đây đều là những vị cao tăng đắc đạo, nổi tiếng trong lịch sử không chỉ ở lĩnh vực Phật pháp, mà còn ở lĩnh vực chính trị. Hơn nữa, thiền phái này cùng với phái Thảo Đường và phái Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi trở thành ba dòng thiền lớn nhất Việt Nam trong suốt 6 thế kỉ (từ thế kỉ VII – XIV) và tạo nền tảng hình thành nên thiền phái Trúc Lâm nổi tiếng sau này.
Chính điện chùa Kiến Sơ và tượng thờ thiền sư Vô Ngôn Thông tại chùa (ảnh nhỏ) |
Cũng theo các thư tịch cổ để lại, thuở nhỏ vua Lý Công Uẩn Uẩn tu tại chùa Cổ Pháp (nay thuộc Bắc Ninh), sau theo học Phật với thiền sư Vạn Hạnh và thường xuyên vào chùa Kiến Sơ học thiền và tu tập thiền định. Huyền sử kể rằng, vào thời tiền Lê, trong dân gian có truyền nhau câu sấm nói rằng một người họ Lý, dưới chân có chữ Vương sau này nhất định sẽ thay thế nhà Lê. Bởi vậy, vua thời đó đã cho người truy lùng rất gắt gao và tìm mọi cách giết cho được Lý Công Uẩn. Để trốn cuộc truy sát, Lý Công Uẩn đã phải ẩn mình ở chùa Kiến Sơ.
Trụ trì chùa lúc đó là sư Đa Bảo đã đào một cái hầm lớn dưới đất. Sau đó, sư cho xây một bể nước lên trên để đánh lừa quan quân truy đuổi. Lý Công Uẩn trốn dưới đó rất ít khi được lên mặt đất. Khi quan quân lùng đến, các nhà sư lấy lí do dòng thiền này phải câm lặng (vô ngôn) nên dù quân lính hỏi cái gì, sư đều không nói. Bởi thế Lý Công Uẩn mới thoát nạn.
Sau khi thành đại nghiệp, vua Lý Công Uẩn không quên ơn ngôi chùa từng che chở mình nên đã cấp tiền bạc, trùng tu, mở rộng chùa cho bề thế. Đồng thời, vua cho nâng cấp cả miếu thờ Thánh Gióng và hàng năm bắt các quan về đây bái lễ. Cũng vì vậy, tên chữ chùa Kiến Sơ còn được giải thích như mối lương duyên ban đầu của vị vua sáng lập triều Lý với ngôi chùa gắn nhiều kỉ niệm thời gian khó. Đó cũng là mối duyên giữa sư Đa Bảo và Lý Công Uẩn sau này.
Trải qua thời gian lịch sử với những biến cố thăng trầm của thời đại, ngôi chùa cũng có số phận đầy biến động và đổi thay rất nhiều. Hiện nay, chùa có kiến trúc khá bề thế. Cổng tam quan 5 gian chồng mái. Chùa được thiết kế theo kiến trúc truyền thống thường thấy ở các chùa Bắc Bộ. Trước cửa chùa là một hồ sen rộng lớn, bao quanh lối dẫn vào chùa chính. Bên trái chùa là một cái khánh đá có niên đại hơn 400 năm. Đây cũng là cổ vật duy nhất còn lại với thời gian mà không bị hư hại hoặc bị đánh cắp.
Khuôn viên của ngôi chùa cổ |
Đến vãn cảnh chùa, phật tử không còn nhận ra những dấu vết nào của một thiền phái năm xưa vốn hùng mạnh, với biết bao đệ tử theo học. Có chăng, bức tượng Vô Ngôn Thông và hai bức tượng, một là vua Lý Công Uẩn, một là mẹ vua Lý Công Uẩn như là dấu vết còn xót lại của một thời kì huy hoàng.
Sư Na (tên thường ngày mà người dân nơi đây vẫn dùng để gọi ni sư trụ trì chùa Kiến Sơ) kể rằng, mặc dù chùa được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia từ năm 1975 nhưng tầm ảnh hưởng vẫn chỉ trong phạm vi ... làng. Nhiều phật tử đến làm lễ nhưng chính họ cũng không biết tên ngôi chùa này, càng không biết lịch sử của nó. Nếu nhắc đến tên chùa, nhiều phật tử còn ngạc nhiên tưởng rằng, ngôi chùa là một phần của di tích đền Gióng.
Trải qua mưa nắng thời gian, thiên tai địch họa, ngôi chùa đã thay đổi rất nhiều và khó có thể giữ được hồn cốt của một trung tâm phật giáo nổi tiếng năm nào. Nhưng sự quên lãng của hậu thế liệu có phần nào ứng với chính nguyên lý tu tập mà ngôi chùa này là nơi khởi phát. Nơi tu tập của phái “vô ngôn” thì dĩ nhiên cũng phải “vô tướng, vô hình” thì cao nhân mới đắc đạo được chứ?
Nghĩ vậy nên người viết bài này cũng bớt phần cảm thán. Đâu đây vẳng tiếng chuông chùa như ngàn xưa dội lại, những bóng người áo nâu lặng lẽ, im lặng trong buổi chiều xuân như tô điểm cho một quá khứ vốn xa xăm, không bao giờ trở lại. Tự nghĩ, cuộc sống xô bồ hiện đại, tìm về nơi bình yền mà học cách im lặng như cổ nhân xưa cũng thật đáng quý.