Kiến tạo thập niên môi trường bền vững

Môi trường - Ngày đăng : 10:55, 21/11/2019

(TN&MT) - Trong giai đoạn 2021 - 2030, Việt Nam đặt mục tiêu ngăn chặn được xu hướng ô nhiễm, suy thoái môi trường, từng bước cải thiện chất lượng môi trường và giải quyết các vấn đề bức xúc.

Kiểm soát gia tăng ô nhiễm

Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 5/9/2012. Sau hơn 7 năm thực hiện, bức tranh môi trường Việt Nam đã có nhiều điểm sáng, khi môi trường được coi là một trong ba trụ cột quan trọng của phát triển bền vững.

Phóng viên Báo Tài nguyên và Môi trường đã trao đổi với TS. Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT (ảnh) để hiểu rõ hơn về hành trình thực hiện Chiến lược này trong thời gian qua.

PV: Ông cho biết những kết quả nổi bật khi thực hiện Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030?

TS. Nguyễn Trung Thắng:

Sau 7 năm thực hiện Chiến lược, chúng ta đã đạt được một số kết quả nổi bật. Mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường đã phần nào được kiểm soát, hạn chế.

Cụ thể, môi trường khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) được kiểm soát; vệ sinh môi trường nông thôn, thu gom và xử lý chất thải rắn đô sinh hoạt (CTRSH) đô thị, chất thải nguy hại (CTNH) và chất thải y tế được cải thiện.

TS. Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lươc, Chính sách TN&MT

Về cải tạo, phục hồi môi trường, nhiều nỗ lực cải tạo và phục hồi hồ, ao, kênh mương trong đô thị đã được triển khai. Đã cơ bản xử lý xong ô nhiễm dioxin ở sân bay Đà Nẵng và Phù Cát. Diện tích rừng ngập mặn đã tăng thêm 18.100ha từ 2010 đến nay. Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tiếp tục đạt nhiều kết quả, dự kiến năm 2019 đạt 3.123 tỷ đồng, tăng gần 3 lần so với năm 2012. Tỷ lệ dân số đô thị được cấp nước sạch đạt 86% so với 80% năm 2010; tỷ lệ dân số nông thôn được cấp nước hợp vệ sinh đạt 94,84% so với 79% năm 2010.

Tài nguyên đất từng bước được sử dụng hiệu quả hơn; công tác dồn điền, đổi thửa, tích tụ đất đai trong sản xuất nông nghiệp đã bước đầu có kết quả đáng khích lệ. Việc sử dụng nước hiệu quả được quan tâm, chúng ta đã thực hiện thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, đạt hơn 8.700 tỷ đồng năm 2019. Độ che phủ rừng đạt 41,6% năm 2018, tăng so với 2012 (39,5%). Nước ta đã tăng thêm 3 khu bảo tồn thiên nhiên trên cạn với diện tích tăng thêm 2.500ha so với 2015; tăng thêm 4 khu bảo tồn biển so với 2010 với tổng diện tích đạt khoảng 0,11% vùng biển trên cả nước.

Nhận thức, hiểu biết về biến đổi khí hậu (BĐKH) đã được nâng lên một bước; công tác phòng, chống, ứng phó với thiên tai tiếp tục được đẩy mạnh; kịch bản BĐKH và nước biển dâng đã được cập nhật 2 lần năm 2012 và 2016. BĐKH đã được lồng ghép vào các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngành. Nhiều mô hình thích nghi, sống chung với BĐKH đã được xây dựng và nhân rộng. Hoạt động giảm phát thải khí nhà kính tiếp tục được quan tâm; đã tiết kiệm được 5,65% năng lượng giai đoạn 2011 - 2015; năng lượng mặt trời có bước phát triển mạnh, đạt 4.500MW năm 2019; nhiều hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính được triển khai thực hiện.

PV: Nhìn vào những kết quả đạt được, có thể thấy, bảo vệ môi trường đã được nâng lên đáng kể, song trên thực tế, còn không ít “điểm đen” tiềm ẩn nhiều nguy cơ ô nhiễm, ông đánh giá như thế nào về vấn đề này?

TS. Nguyễn Trung Thắng:

Đúng là bên cạnh những mặt tích cực đã làm được, công tác bảo vệ môi trường cũng còn không ít tồn tại. Cụ thể là vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các cụm công nghiệp, lưu vực sông, làng nghề chưa được thực hiện triệt để. Quản lý chất thải rắn còn yếu kém; việc kiểm soát các công nghệ cũ, các loại phế liệu, chất thải từ nước ngoài còn nhiều bất cập. Các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chậm được xử lý. Ô nhiễm môi trường do khai thác khoáng sản chưa được ngăn chặn. Nhiều sự cố môi trường, an toàn hóa chất, an ninh nguồn nước đã xảy ra trong thời gian qua...

Chất lượng môi trường chưa được cải thiện và tiếp tục bị suy giảm, đặc biệt là chất lượng môi trường không khí ở các đô thị. Việc xử lý nước thải đô thị; phục hồi các điểm tồn lưu thuốc bảo vệ thực vật ở nông thôn; phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái… chưa có nhiều tiến triển.

Bức tranh môi trường Việt Nam đã có nhiều điểm sáng, khi môi trường được coi là một trong ba trụ cột quan trọng của phát triển bền vững. Ảnh: MH

Tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học tiếp tục đứng trước những thách thức về suy thoái, cạn kiệt do khai thác chưa bền vững, sử dụng kém hiệu quả và các tác động của BĐKH. Tình trạng chặt phá rừng trái phép chưa được ngăn chặn; chất lượng rừng, các HST quan trọng, các loài hoang dã, nguy cấp, quý hiếm và nguồn gien tiếp tục suy giảm; vẫn còn các nguy cơ về kiểm soát an toàn sinh học... Năng lực ứng phó với BĐKH vẫn còn hạn chế do nhận thức về BĐKH chưa đáp ứng yêu cầu; thiệt hai do thiên tai vẫn còn lớn.

Nguyên nhân của những hạn chế này, theo tôi, có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về khách quan, do dân số tiếp tục gia tăng; quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ; trong khi phát triển cơ sở hạ tầng và kỹ thuật về bảo vệ môi trường không theo kịp. BĐKH tiếp tục diễn biến phức tạp, nhanh hơn so với dự kiến đã gây nhiều tác động tiêu cực đến môi trường và kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời, các tác động môi trường xuyên biên giới có xu hướng gia tăng, như suy giảm nguồn nước, dịch chuyển phế liệu và công nghệ cũ, lạc hậu vào nước ta; ô nhiễm rác thải nhựa đại dương...

Về chủ quan, do ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu; sự tham gia bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, cộng đồng còn nhiều hạn chế. Tổ chức thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường chưa nghiêm, trật tự kỷ cương về bảo vệ môi trường còn yếu kém; sự phối hợp giữa các bên liên quan trong bảo vệ môi trường chưa hiệu quả. Nguồn lực cho bảo vệ môi trường còn thiếu và yếu, chưa tương xứng với tốc độ gia tăng các áp lực về môi trường.

Hệ thống chính sách pháp luật còn thiếu, chồng chéo và bất cập; chồng lấn giữa các Bộ, ngành về chức năng, nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Việc ứng dụng các phương thức quản lý mới còn chậm; ứng dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại còn yếu; cơ sở dữ liệu về môi trường chưa được xây dựng đồng bộ, cập nhật, liên kết và chia sẻ.

PV: Để Chiến lược tạo được bước đột phá, giai đoạn 2021 - 2030, chúng ta phải tập trung thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp gì?

TS. Nguyễn Trung Thắng:

Tôi cho rằng, thời gian tới, chúng ta phải tiếp tục ưu tiên chủ động phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc để từng bước nâng cao chất lượng môi trường sống của nhân dân, kết hợp với bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.

Để đạt được điều đó, chúng ta cần quán triệt quan điểm môi trường là cơ sở, nền tảng để phát triển bền vững. Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ, cần được đặt ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển. Kiên quyết không hy sinh môi trường vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế; phát triển phải hài hòa với thiên nhiên, tuân theo quy luật tự nhiên. Phát huy vai trò, ý thức trách nhiệm của chính quyền địa phương và doanh nghiệp, cộng đồng.

Tỷ lệ KCN, KCX có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt yêu cầu về môi trường đạt 88% so với 60% năm 2010. Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông thôn mới đã đạt nhiều kết quả quan trọng; tỷ lệ thu gom CTRSH đô thị đã tăng lên 86% so với 82% năm 2010; tỷ lệ thu gom, xử lý CTNH đã được cải thiện, đạt 75% so với 65% năm 2010; tỷ lệ chất thải y tế được phân loại, xử lý đạt 98%.

Cùng với đó, phải tăng cường và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường; đẩy mạnh quản trị môi trường, tăng cường tính công khai, minh bạch và sự giám sát của cộng đồng; cải cách thủ tục hành chính; tăng cường ứng dụng các thành quả của công nghệ và Cách mạng công nghiệp 4.0 trong bảo vệ môi trường; thúc đẩy cách tiếp cận liên ngành, liên vùng, kinh tế tuần hoàn, thích ứng dựa trên hệ sinh thái, quản lý tổng hợp tài nguyên, phát triển kinh tế xanh, các bon thấp.

Điểm quan trọng nữa là phải tăng đầu tư cho bảo vệ môi trường, huy động mọi nguồn lực cho B bảo vệ môi trường. Tạo cơ chế, chính sách để phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ môi trường; thực hiện bảo vệ môi trường dựa trên cách tiếp cận thị trường; nâng cao hiệu quả của các công cụ kinh tế theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Tống Minh