Quốc hội thông qua Đề án phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thời sự - Ngày đăng : 16:42, 18/11/2019

(TN&MT) - Chiều 18/11, tiếp tục chương trình làm việc tại kỳ họp thứ 8, dưới sự điều khiển của Phó Chủ  tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn với 89,44% tán thành.

Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng điều khiển phiên họp. Ảnh: Quốc Khánh

Trước khi biểu quyết, Quốc hội đã nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Nghị quyết phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn

Trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình Đề án, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Hà Ngọc Chiến cho biết, thực hiện chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV, ngày 21/10/2019, Chính phủ trình Quốc hội Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (ĐBDTTS&MN), giai đoạn 2021-2030.

Theo báo cáo, qua thảo luận tại Tổ và Hội trường đã có 77 lượt ý kiến đại biểu Quốc hội phát biểu ở Tổ; 27 ý kiến phát biểu tại Hội trường và 06 ý kiến gửi bằng văn bản. Đa số ý kiến đại biểu nhất trí với sự cần thiết, quan điểm xây dựng và các nội dung chủ yếu của Đề án;

Các đại biểu cũng đánh giá cao việc chuẩn bị công phu, nghiêm túc của Chính phủ, sự nỗ lực phối hợp chặt chẽ, có trách nhiệm cao của Hội đồng Dân tộc, các bộ, ban ngành, các địa phương và nhất trí cho rằng: Đảng, Nhà nước luôn chăm lo, chăm sóc đồng bào DTTS&MN, vùng đặc biệt khó khăn, thực hiện tốt nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển giữa 54 dân tộc anh em; đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc ngày càng nâng lên rõ rệt; khẳng định nước ta không kỳ thị, chia rẽ dân tộc; không có xung đột dân tộc, tôn giáo.

Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Hà Ngọc Chiến trình bày báo cáo. Ảnh: Quốc Khánh

Tuy nhiên, do điểm xuất phát thấp, địa hình vùng núi cao, đất dốc, địa bàn sản xuất khó khăn, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, luôn phải chịu ảnh hưởng hậu quả của mưa lũ, gió lốc, lại xa thị trường trung tâm, kết cấu hạ tầng còn thiếu thốn, nên điều kiện sống của đồng bào còn khó khăn.

Với yêu cầu phát triển của thời kỳ mới của đất nước, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng là cần tập trung cao việc đầu tư phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, phát huy tiềm năng, lợi thế vùng này, chăm lo tốt hơn nữa đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng miền núi; thực hiện Hiến pháp năm 2013, việc Chính phủ trình Quốc hội quyết định chính sách dân tộc càng có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc.

Các đại biểu đều cho rằng, Đề án đủ điều kiện thông qua tại Kỳ họp này. Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến đại biểu và chỉnh lý dự thảo Nghị quyết để trình Quốc hội thông qua như sau:

Về tên gọi của Đề án, Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo như sau: Nghị quyết số 74/2018/QH14 ngày 20/11/2018, Quốc hội giao cho Chính phủ xây dựng Đề án tổng thể đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS&MN, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn, trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Tuy nhiên, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy: Theo phân định hiện hành, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn bao gồm cả các xã bãi ngang ven biển, hải đảo, không phải là địa bàn vùng DTTS&MN. Hiện nay, vùng DTTS&MN được chia thành 3 khu vực, trong đó xã khu vực III là vùng đặc biệt khó khăn.

Kết quả biểu quyết

Do vậy, để tập trung nguồn lực đầu tư của nhà nước và xã hội cho khu vực đặc biệt khó khăn trong vùng DTTS&MN, nhằm tạo đột phá, thúc đẩy khu vực này phát triển, Uỷ ban Thường vụ đề nghị điều chỉnh tên gọi của Đề án là: “Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBDTTS&MN”, để xác định rõ địa bàn, đối tượng của Đề án là vùng DTTS&MN, không bao gồm gần 300 xã bãi ngang ven biển, hải đảo.

Về những trọng tâm, trọng điểm, cần ưu tiên, tiếp thu ý kiến các vị đại biểu quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo và thể hiện các nội dung nhiệm vụ trong Đề án theo thứ tự ưu tiên, như: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; Quy hoạch, sắp xếp, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết; Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền, sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị;

Đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu; Phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Bảo tồn phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các DTTS gắn với phát triển du lịch; Chăm sóc sức khỏe nhân dân; Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em; Đầu tư phát triển nhóm dân tộc thiểu số rất ít người và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn; Truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. 

Về tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, ý kiến của các vị đại biểu là xác đáng, cần phải sớm tháo gỡ trong thực tiễn để tổ chức thực hiện các chính sách có trọng tâm, trọng điểm, là nội dung quan trọng, làm cơ sở cho việc xác định phạm vi, đối tượng, thứ tự ưu tiên thực hiện của Đề án.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Nghị quyết đã được ghi: Quốc hội giao Chính phủ xây dựng bộ tiêu chí phân định vùng ĐBDTTS&MN mới, bảo đảm toàn diện, khách quan, khoa học, chính xác. Đồng thời, đây cũng là một nội dung thiết thực thực hiện Bộ công cụ tự đánh giá việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững mà Liên hợp quốc và Liên minh nghị viện thế giới đã xác định và chọn Việt Nam làm điểm sáng.

Về tín dụng ưu đãi và vai trò của Ngân hàng chính sách xã hội, Uỷ ban Thường vụ nhận thấy, một trong những vấn đề đổi mới nhận thức trong giai đoạn tới là: việc sử dụng ngân sách nhà nước chuyển từ hỗ trợ trực tiếp cho đồng bào hoặc cho không, sang: cho vay có điều kiện, vừa đầu tư cho sản xuất, vừa có kinh phí để hướng dẫn, từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, bảo toàn được nguồn vốn, vừa phát huy sự chủ động của đồng bào vươn lên áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh.

Do đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp thu ý kiến các đại biểu Quốc hội và thể hiện trong Dự thảo Nghị quyết theo hướng quy định rõ: “Mở rộng và đổi mới chính sách tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội theo hướng tăng định mức, mở rộng đối tượng được vay đến các dự án sản xuất, kinh doanh tạo sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số”.

Đồng thời, Nhà nước cần tiếp tục cân đối, tăng cường nguồn vốn tín dụng qua ngân hàng chính sách xã hội, theo hướng tập trung vào các đối tượng: hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh, hoạt động thương mại tại xã, thôn, bản vùng ĐBDTTS&MN.

Đối với việc tổ chức thực hiện, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nêu rõ, cũng như các chương trình mục tiêu quốc gia khác, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2030 cũng cần tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm cao, kiên trì, để thực hiện nhiệm vụ và đạt được các mục tiêu đặt ra.

Do đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ghi trong dự thảo Nghị quyết là: Do một đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban Chỉ đạo; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc làm Phó Trưởng Ban thường trực và có sự tham gia của Lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan.

Như vậy sẽ đảm bảo sự chỉ đạo xuyên suốt, thống nhất từ Chính phủ đến các bộ, ngành và địa phương, thu gọn được đầu mối, giảm các thủ tục không cần thiết. Nếu thực hiện được như vậy, tin rằng Đề án sẽ được tổ chức thực hiện có hiệu quả, thực sự quan tâm đến đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước về chính sách dân tộc và công tác dân tộc trong tình hình mới.

Mục tiêu cụ thể của đề án đến 2025

Mức thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số tăng trên 2 lần so với năm 2020.

Tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số hàng năm giảm trên 3%; 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông, 70% thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa. 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố; 99% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp; 90% số dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 100% dân số được xem truyền hình và nghe đài phát thanh.

Mục tiêu tiếp theo là hoàn thành cơ bản công tác định canh, định cư; sắp xếp, bố trí ổn định 90% số hộ di cư không theo quy hoạch. Quy hoạch sắp xếp, di dời, bố trí 60% số hộ dân tộc thiểu số đang cư trú phân tán, rải rác trong rừng đặc dụng, các khu vực xa xôi, hẻo lánh, nơi có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở. Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào.

Tỷ lệ học sinh học mẫu giáo 5 tuổi đến trường trên 98%, học sinh trong độ tuổi học tiểu học trên 97%, học trung học cơ sở trên 95%, học phổ thông trung học trên 60%; người từ 15 tuổi trở lên đọc thông viết thạo tiếng phổ thông trên 90%.

Tăng cường công tác y tế để đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại; tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; 98% dân số dân tộc thiểu số tham gia bảo hiểm y tế;

50% lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người dân tộc thiểu số. Trên 80% phụ nữ có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể nhẹ cân xuống dưới 15%.

 

Hải Ngọc