Đoản khúc Dấu Cỏ: Kỳ I: Xóm rừng hoang hoải

Xã hội - Ngày đăng : 11:30, 15/10/2019

(TN&MT) - Tôi đến cửa rừng Đông Cửu lúc nắng thu heo hắt, pha loãng bớt cái ảm đạm nhớp nháp sa mù sau cơn mưa đêm. Cảnh ấy, khiến miền núi hơi hướm trung du của Thanh Sơn (Phú Thọ) chẳng khác một buổi tàn đông. Cách đây 15 năm, khi chút bóng dáng khoa học len lỏi về Dấu Cỏ, bản công giáo người Dao mới nhận ra, mấy chục thập kỷ qua, họ ăn ngủ chung với tử thần. Họ chẳng hiểu nguyên tố hạt nhân là gì, nhưng họ khao khát trốn chạy, thoát khỏi xứ sở mà tổ tiên đã khai phá mở mang.

Lâu lắm rồi, người ta không thống kê nữa, bởi những nấm mồ sơ sinh còn nhiều hơn người lớn, bằng cả nửa dân số bà con ở bản. Trong chiếc chòi canh rừng lụp xụp, vị trưởng bản Dấu Cỏ vừa kể vừa nhìn trời. Phía góc chòi, bức ảnh Chúa gắn vào trảng cây giãy lên đành đạch, theo gió giật từng cơn, lời ông kể, âm u phong thanh, vấp vào vách núi. Dấu Cỏ đón tôi với những viền ta luy lở loét ngút ngát cô liêu đó, tận cùng, khi không có đường để đi nữa.

1 Tr ng b n L V n Chi u
Trưởng bản Lê Văn Chiêu (bên trái) trao đổi với tác giả.

Xóm rừng ở rốn tử thần

Mấy chục con người co cụm thành xóm rừng heo hút đó, vào năm 1961. Sau nhiều ngày bàn luận lung lắm, đồng bào Dao ở Dấu Cỏ kiên định ý chí hạ sơn, chấm dứt hàng chuỗi thập kỷ lang bạt non cao mà ông cha để lại. Họ miệt mài đi, cuối cùng, dừng chân bên dòng suối góc rừng Đông Cửu. Từ đây, cuộc đời của 20 hộ dân khi ấy mở sang trang mới, viết nên bao đau thương, bế tắc, với tang tóc, bệnh tật triền miên, trùm lên ngôi làng thê lương năm này nối năm khác, đời nọ nối đời kia.

“Gần 10 năm trời, cả bản không tăng thêm hộ dân nào. Trẻ con mất nhiều quá, không thể kể tường tận bao nhiêu phụ nữ mang thai chết lưu, chỉ láng máng thống kê được những đứa “may mắn” chào đời. Rồi vài tuổi, thậm chí, vài tháng, cứ dị dạng, liệt não, bất thình lình sau một đêm trở thành cái xác cứng đờ”, ánh mắt Trưởng bản Lê Văn Chiêu vô định, rơi vào thung lũng ngờm ngợp phía xa.

Đến nay, ông Chiêu đã làm Trưởng bản Dấu Cỏ ngót hai thập niên, lấy 2 đời vợ, mất 4 đứa con. Nhớ lại cái dáng người vợ đầu, bỏ ông đi trong ngày mưa tầm tã, cứ nhỏ dần sau triền dốc, mười mấy năm vẫn day dứt ám ảnh, bảo với tôi, bà ấy đúng, bà ấy khao khát được làm mẹ, nhưng nếu ở lại và sinh thêm những đứa con, chắc gì chúng sống nổi. Vợ ông dời làng, để ông chông chênh nỗi đau quá khứ, ngày ngày bên hai ngôi mộ thấp tè, hai người con, chúng mất khi lên hai, lên bốn.

... Dấu Cỏ tối rất nhanh. Đồi rừng trải dài lám nhám xám, lép nhép sương vương, ẩm ướt như mắt người thiếu nữ đương khóc dở. Hai bên núi lở liên miên, hoa dại rạp nát lẫn bùn tựa những đàn bướm chết. Thứ khí hậu khắc nghiệt khiến quanh năm chỉ có dân bản địa, không ai xuôi ngược bận tâm đến cái thôn ổ vùng cao thưa thớt ấy. Thế nhưng, vài phụ nữ đã bén duyên xứ sở lặng lẽ này. Họ đem chút tươi sáng về bản, bởi họ sống cách xa bản hàng trăm cây số, biệt tịch hẳn với tiếng khóc tang thương hàng mấy thập kỷ nơi đây. Dẫu sao, đàn ông ở Dấu Cỏ lấy được vợ dưới xuôi cũng là cuộc cách mạng rồi.

3 H m khai th c cao lanh
Hầm khai thác cao lanh trái phép ở Thanh Sơn không được hoàn thổ.

Chị Nguyễn Thị Sỹ - người vợ thứ hai của Trưởng bản Lê Văn Chiêu, quê tận Thanh Thủy, quen ông mấy bận xuống chợ, khi lên núi đã thành vợ chồng. Lên núi cô mới biết, Dấu Cỏ nhiều nấm mồ trẻ con đến thế. Đằng đẵng chuỗi ngày, cô chứng kiến bọn trẻ trong làng nô đùa dọc những triền đồi dốc dác, đứa nào da cũng xanh bủng, ốm nhách, đầu to lêu bêu, đi liêu xiêu như kéo lê cái thân tàn theo thời gian. Rồi có đứa hôm sau không còn thấy mặt. Cái thai trong bụng cô cứ lớn dần cùng bao hoang mang lo sợ. Và, tới tháng thứ năm, đứa trẻ đã không còn cơ hội chào đời. “Vợ tôi tiếp tục mang thai, tưởng sẽ sinh được, nhưng đến tận tháng thứ tám rồi mà nó lại bỏ đi. Nay vợ chồng tôi có hai con, dù càng lớn chúng càng ngờ nghệch, thiểu năng trí tuệ, song vẫn may hơn nhiều gia đình...”, nước mắt lăn thành vệt trên lưỡng quyền xạm đen của ông. Sáng nào cũng vậy, công việc đầu tiên người Dấu Cỏ làm, là chạy đến giường nhìn khuôn mặt con mình, nắn nắn đo đo, xem kích thước, hình dạng thay đổi gì không. Và phải đợi chúng qua tuổi 13 mới yên tâm.

Niềm tin dần ăn mòn trí nghĩ

Đường vào Dấu Cỏ qua nhiều dốc. Trụ sở chính quyền xã Đông Cửu nằm kế bên một con dốc cao nhất. Từ phía đó, Phó Chủ tịch xã Phan Huy Biên, chỉ tay bảo, cánh đồng dưới chân núi là người Dấu Cỏ vỡ hoang, trước chỉ có đồi hóa. Nơi góc rừng vô số vườn mận, vào mùa hoa trắng như sương. Thời thập niên 90, cây lương thực, hoa màu, gia súc, gia cầm cho năng suất, dân làng no đủ; từ năm 2000 trở đi, ngô lúa kém hẳn, gà vịt hầu như không đẻ trứng nữa... Mới đầu, ai cũng đổ lỗi do thời tiết, nhưng rồi người làng ốm yếu, bệnh tật nhiều, những cái chết dần tăng, họ lại nói, chắc “ma rừng” làm! Và lập đàn cúng bái, mời thầy tứ phương, song rốt cuộc ngôi làng xơ xác ấy vẫn chẳng thêm được nhân khẩu nào.

Năm 2004, Trưởng bản Lê Văn Chiêu vận dụng hết vốn tiếng Việt, viết lá đơn gửi lãnh đạo xã, thể hiện sự đồng lòng của bà con không còn tin vào các thầy cúng, mong cán bộ về cứu dân. Xã Đông Cửu lại có văn bản lên huyện, huyện lên tỉnh, tỉnh nhờ cơ quan Trung ương, bởi họ cũng chẳng biết cứu cách nào! Hai năm sau, cuối 2006, đoàn khảo sát Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đến Dấu Cỏ đo đạc, kiểm tra thực địa. Họ phân tích hiện trạng, kết luận dưới lòng đất chứa mỏ urani thiên tạo, nguyên tố nhiên liệu trong lò phản ứng hạt nhân; môi trường và con người ở bản bị nhiễm phóng xạ gấp ba lần mức độ cho phép.

Theo kết luận của Cục Kiểm soát, bức xạ hạt nhân (Bộ Khoa học Công nghệ), mức độ phóng xạ mà người dân ở bản Dấu Cỏ phải chịu là 10.27 mili sivơ/1năm. Trong khi đó, theo các tài liệu khoa học, con người chỉ có thể chịu được 1 mili sivơ/1năm. Như vậy, mức độ phóng xạ ở Dấu Cỏ vượt ngưỡng hàng chục lần, không thể sinh sống và trồng trọt.

Sau bận ấy, ông Chiêu lên xã họp, nghe cán bộ nói, làng ông đang sống trên cái mỏ quý hiếm, còn hơn cả vàng bạc, nhưng phải rời đi nơi khác. Rồi ông về nói với đồng bào Dao và họ đợi chính quyền tìm chỗ ở mới! Tối đến, bên bếp lửa, những người già mơ hồ nhớ, đầu năm 1980, có đoàn chuyên gia Nga từng đến đây, mặc đồ bảo hộ kín mít, trông rất kỳ quái, đào bới, lấy đất mang đi, chắc để nghiên cứu, vậy mà họ chẳng cho dân tình biết!

Rồi 5 năm, 10 năm trôi qua, niềm tin dần ăn mòn trí nghĩ người dân Dấu Cỏ. Họ vẫn sống nơi chân núi và cơ man nấm mộ cứ lan rộng dọc sườn đồi. Họ không rõ phóng xạ là gì, quý hiếm ra sao, họ chỉ biết đó là lò thuốc độc, cầu Chúa ban phước lành để có thể sống chung với tử thần.

... Chiều. Mưa lắc rắc, phủ lên từng phiến núi tím thẫm, đổ bóng hoang tàn xuống đồng bằng rải rác ao hồ. Phía sau các căn nhà gỗ, biết bao thân phận phụ nữ dân tộc Dao, cả đời chỉ mong một lần sinh nở như mọi con người. Cái ánh mắt thảng thốt, đau đáu của chị Hồng cứ nhòa dần trong hoàng hôn thê thiết ấy. Người con gái tận Kim Thượng lên làm dâu Đông Cửu đó kể với tôi rằng, chị từng mang cái thai chết lưu vượt hàng trăm cây số, nhưng chỉ khi đến Bệnh viện thành phố Việt Trì, chị mới biết điều đó.

Kỳ II: Khắc khoải con đường an lạc

 

Thiệu Anh