Thời tiết khắc nghiệt phá hủy gần 50% hệ sinh thái biển của Úc kể từ năm 2011

Biến đổi khí hậu - Ngày đăng : 15:38, 29/07/2019

(TN&MT) - Nghiên cứu của Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Liên bang Úc (CSIRO) cho thấy các sự kiện khí hậu cực đoan như sóng nhiệt, lũ lụt và hạn hán đã làm hỏng 45% hệ sinh thái biển của Úc trong thời gian 7 năm.
Những cơn gió mạnh từ lốc xoáy Yasi đã tấn công Townsville vào năm 2011. Bão, sóng nhiệt và tẩy trắng san hô đã tàn phá bờ biển Úc trong thập kỷ qua. Ảnh: Ian Hitchcock / Getty Images
Những cơn gió mạnh từ lốc xoáy Yasi đã tấn công Townsville vào năm 2011. Bão, sóng nhiệt và tẩy trắng san hô đã tàn phá bờ biển Úc trong thập kỷ qua. Ảnh: Ian Hitchcock / Getty Images

Hơn 8.000km bờ biển Úc đã bị ảnh hưởng bởi các sự kiện khí hậu khắc nghiệt từ năm 2011 - 2017, và trong một số trường hợp, chúng đã gây ra những thay đổi không thể đảo ngược đối với môi trường sống biển.

Nghiên cứu trên đã đối chiếu tất cả các nghiên cứu được các nhà khoa học hàng đầu công bố. Họ là những người đã kiểm tra ảnh hưởng của sóng nhiệt biển, lượng mưa lớn từ các cơn bão nhiệt đới, lốc xoáy và hạn hán trên các cộng đồng san hô, tảo bẹ, rừng ngập mặn và cỏ biển.

Nghiên cứu phác họa một bức tranh toàn cảnh về mức độ khủng hoảng khí hậu đang thúc đẩy sự thay đổi rộng khắp trên khắp các hệ sinh thái biển của Úc.

Nghiên cứu cho thấy các sự kiện khí hậu lớn đang làm trầm trọng thêm các tác động của biến đổi khí hậu do con người gây ra.

Chẳng hạn, sóng nhiệt đã kết hợp các tác động của xu hướng sưởi ấm toàn cầu tiềm ẩn và chỉ để ít thời gian cho các sinh vật thích nghi.

Nhóm các nhà khoa học đã xem xét các sự kiện, bao gồm sóng nhiệt năm 2011 ở Tây Úc, lốc xoáy Yasi, khối tẩy trắng phía sau trên Rạn san hô Great Barrier và vùng ngập mặn ở Vịnh Carpentaria trong năm 2015 - 2016.

Họ cũng kiểm tra những hậu quả lâu dài do những sự kiện này gây ra, trong đó có một số khu vực có hậu quả ít, và có dấu hiệu phục hồi.

“Một số mô hình của chúng tôi cho thấy phải mất 15 năm để phục hồi sau những tác động như thế này”, ông Babcock cho biết và nhấn mạnh trong khung thời gian đó, khả năng lớn sẽ xảy ra nhiều sự kiện cực đoan hơn.

Ông trích dẫn các khu vực rộng lớn ngoài khơi bờ biển Tây Úc, nơi những tán cây tảo bẹ chưa phục hồi kể từ đợt nắng nóng năm 2011.

Babcock cho biết những ảnh hưởng lâu dài của những sự kiện như vậy đã ảnh hưởng đến các loài khác, chẳng hạn như động vật lớn ăn cỏ biển, có thể dẫn đến thay đổi thành phần của toàn bộ cộng đồng biển.

“Vì vậy, những thứ mà chúng tôi đánh giá cao về những môi trường sống đó - sự đa dạng của thực vật và động vật ở đó và số lượng những thứ như thủy sản bạn có thể thu hoạch từ chúng - có thể bị ảnh hưởng”, ông Babcock nói.

“Một trong những điều quan trọng là nghiên cứu các yếu tố tạo ra sự khác biệt về sự phục hồi của những môi trường sống này và do đó tìm hiểu những gì chúng ta có thể làm để giúp chúng phục hồi nhanh hơn” - ông Babcock nhấn mạnh.

Nhà khoa học Terry Hughes đứng đầu Trung tâm Chuyên nghiên cứu rạn san hô thuộc Đại học James Cook là một trong những nhà nghiên cứu có công trình được tham khảo trong nghiên cứu của CSIRO.

Theo Hughes, nghiên cứu cho thấy mối nguy hiểm nghiêm trọng đối với tất cả các hệ thống biển, không chỉ các rạn san hô thường nhận được sự chú ý của công chúng nhiều hơn.

“Các hệ thống biển khác - tảo bẹ, cỏ biển, rừng ngập mặn - cũng dễ bị tổn thương như các rạn san hô nhưng chúng không phải là một đứa trẻ bị ảnh hưởng bởi một số bệnh hoặc dị dạng có hình ảnh được sử dụng trên áp phích”, ông nói.