Chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc: Tưởng niệm người đăng lính trên dặm dài sóng nước
Văn hóa - Ngày đăng : 23:05, 05/02/2018
Khao lề thế lính Hoàng Sa
Nếu là để chia tay những người đăng lính thì đó là lễ thức khao lề thế lính, còn nếu là để tưởng niệm người đăng lính đã bỏ mạng trên dặm dài sóng nước, thì đó là lễ thức khao lề tế lính. Mà thường là cho cả hai, thế người còn sống và tế người đã chết.
Khao lề chỉ là lệ khao định kỳ hàng năm, như hình thức cúng việc lề mà một số nơi trong nước còn gìn giữ, song thế lính lại là nghi lễ mang đậm dấu ấn của đạo giáo nhằm thế mạng cho người đi lính, bởi người đi lính Hoàng Sa sẽ phải luôn đối mặt với bão tố, sóng ngầm.
Lần giở trong sử sách và lưu truyền trên đất đảo Lý Sơn, người lính Hoàng Sa năm xưa phải lênh đênh cùng sóng nước trong 6 tháng nhưng chỉ với những chiếc thuyền câu nên số phận xem như đành gửi theo mây trời, bọt biển.
Để có cơ may xác mình còn được yên lành trôi về bản quán, trước khi ra đi mỗi người đi lính Hoàng Sa phải tự chuẩn bị riêng cho mình 1 đôi chiếu, 7 đòn tre, 7 sợi dây mây và 1 thẻ bài. Nếu không may ngã xuống thì đôi chiếu, những chiếc đòn tre và các dây mây kia là vật dụng để bó xác người. Người chết sẽ được thả trôi trên biển cùng chiếc thẻ bài đã được ghi tên phiên hiệu. Nhưng chắc hẳn cũng chẳng mấy xác người được may mắn trên về được bản quán.
Những tên tuổi ghi trong sử sách như Cai đội Phạm Quang Ảnh (Ất Hợi, 1815), Chánh thủy quân suất đội Phạm Văn Nguyên (Ất Mùi, 1835), Chánh thủy quân suất đội Phạm Hữu Nhật (Bính Thân, 1836)... là những người được vua Gia Long, vua Minh Mạng cử đi Hoàng Sa, kiêm quản Trường Sa không chỉ để tìm kiếm sản vật, đo đạc thủy trình, tuần phòng trên biển đảo mà cắm mốc, dựng bia chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy biết khó cơ may trở về, nhưng con người vẫn hy vọng dù rất mỏng manh, như để cứu vớt niềm hy vọng ấy, trước khi ra đi, cùng với việc họ tộc bàn soạn lễ vật, thầy phù thủy sẽ nặn hình nhân thế mạng bằng bột gạo, hoặc bằng đất sét.
Theo Quốc sử quán triều Nguyễn sẽ rất ngạc nhiên khi biết cách đây 3, 4 thế kỷ, nhà Nguyễn bắt đầu ý thức đến nguồn tài nguyên vô tận, cũng như sớm xác lập chủ quyền lãnh thổ trên vùng biển Đông của Tổ quốc mà trước hết, đó là tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nên đã cử nhiều đội hùng binh ra đo đạc, cắm mốc, khai thác sản vật.
Xưa kia, hằng năm các chúa Nguyễn đã tuyển 70 dân đinh, giỏi nghề đi biển ở các làng An Vĩnh và An Hải tại vùng cửa biển Sa Kỳ đến dân đinh đảo Lý Sơn, giương buồm nương theo gió nồm vượt sóng ra quần đảo Hoàng Sa. Cứ tháng hai, tháng ba đến nhận lệnh ra đi và tháng tám trở về cửa Eo (Thuận An, Thừa Thiên Huế) để nộp cho Kinh thành Phú Xuân (Huế) những sản vật tìm được.
Theo gia phả, các bản khế ước, các sổ đinh, các văn bản định suất thuế khóa của các dòng họ trên đảo Lý Sơn và những gì lưu truyền trong trí nhớ của nhiều bô lão, 70 suất đinh định chế đi Hoàng Sa và sau này cả Trường Sa, nhiều nhất vẫn là người của làng An Vĩnh trên đảo Lý Sơn. 70 suất đó được phân đều cho các tộc họ, không phân biệt tiền hiền hay hậu hiền.
Tri ân bậc tiền nhân
“Hoàng Sa trời nước mênh mông/Người đi thì có mà không thấy về/Hoàng Sa mây nước bốn bề/Tháng ba khao lề thế lính Hoàng Sa”. Người dân đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi gọi đó là “lời tóm tắt số phận” của những người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa từ thưở xưa. Trước, vua Tự Đức gọi họ là hùng binh. Nay, các bậc cao niên vẫn gọi họ là tiền hiền, còn những người trẻ như chúng tôi muốn gọi họ là bậc anh hùng tiền bối bảo vệ chủ quyền biển - đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong 15 và 16 - 3 âm lịch mỗi ai có mặt tại huyện đảo Lý Sơn để đón dự Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa sẽ thấy hầu hết các họ tộc trên đất đảo Lý Sơn có người đăng lính Hoàng Sa, Trường Sa đều thực thi lễ thức này.
Cách xa Quảng Ngãi khoảng 14 hải lý, ẩn hiện trong trời biển là đảo Lý Sơn xanh mờ. Trông đảo như những phiến thạch “canh giữ” cho đất liền tổ quốc giữa trùng khơi mênh mông. Tàu càng gần đảo, nơi Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa diễn ra, bất chấp sự biến đổi của thời cuộc, của sóng gió biển khơi, người dân Cù Lao Ré - Lý Sơn vẫn giữ cho mình một nét văn hóa đặc sắc không phai mờ. Khi con tàu còn cách bờ chừng một hải lý, khách đã có thể trông thấy cờ hoa bay rợp trời, nghe tiếng hội lễ đã kề bên tai.
Đảo Lý Sơn khá đông đúc. Và một khi hàng vạn cư dân của đảo lớn và đảo bé cùng đi dự lễ thì đường sá cũng trở nên rộn ràng nhộn nhịp hơn. Lễ khao lề diễn ra trong hương khói nghi ngút thiêng liêng, lời phú chú lầm rầm trên nền nhạc bát âm hoặc ngũ âm xen lẫn tiếng mõ thị uy của thầy phù thủy với áo thụng, mũ tam sơn.
Bên cạnh hình nhân và linh vị là người lính Hoàng Sa - người lính ấy luôn đứng hầu thần suốt buổi tế bằng chính niềm tin là lời nguyện cầu của chính mình, của tộc họ thấu suốt đấng linh thiêng và ngón nghề ấn quyết của thầy phù thủy sẽ xua được tà ma quỷ ám trên dặm dài sóng nước. Sau khi lễ thức kết thúc những hình nhân và linh vị cùng những thứ tượng trưng mà người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa thường mang theo như gạo, muối, nước ngọt, củi, lưới... được thả bằng thuyền chuối ra biển.
Hầu hết các họ tộc trên đất đảo Lý Sơn có người đăng lính Hoàng Sa, Trường Sa. Bởi vậy, thường hầu hết các họ tộc đều thực thi các lễ thức trong tháng hai âm lịch hàng năm. Sau các họ tộc là đến lễ hội chung, đông hơn và quy tụ hầu hết con dân xứ đảo. Một cán bộ văn hóa huyện đảo Lý Sơn cho hay: “Năm nào cũng vậy, bà con tổ chức rất linh đình, quy tụ. Bởi lễ hội là của chính họ, là dịp họ tỏ tấm lòng thành kính với các bậc tổ tiên đã quên mình mà bảo vệ chủ quyền biển - đảo của Tổ quốc thiêng liêng”.
Trong lễ hội này, có một nhân vật đặc biệt, người duy nhất có thể đọc thuộc lòng bài Chân tế Hoàng Sa - một trong hai bài tế bắt buộc trong nghi thức hành lễ, dài gần 5.000 chữ. Trong gần trọn buổi sáng bài chân tế của ông đã tạo nên một không khí nghiêm trang, một khí thế thổi vào lòng người dự lễ. Tôi còn nhớ ông là Nguyễn Trung Thành, lặn lội từ huyện Long Thành (Đồng Nai) về đây, là hậu duệ đời thứ 7 trong dòng tộc làm pháp sư tại đảo Lý Sơn.
“Tui đã vào sống ở miền Nam, cứ đến lễ là đứng ngồi không yên. Kiểu chi cũng phải bắt xe về quê. Cứ đến ngày lễ là lòng dạ nôn nao, nên không về không đặng” - ông Thành cho hay. Đời cố, đời ông nội, đến đời cha đã truyền lại cho ông bài chân tế.
Nay ông Thành đã vừa 80 tuổi, tuy không còn tế lễ từ nhiều năm nay, nhưng ông Thành vẫn kịp trao truyền lại cho vài người ở đảo Lý Sơn như để tiếp nối một “nghiệp đời” chân tế. Một đoạn bài văn tế lính Hoàng Sa não ruột bi ai sau đây đã được Tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ ghi lại:
“Cúi nghĩ: Cõi u minh khó lòng tưởng tượng
Chất trong chất đục phong hóa từ đầu
Ngoảnh sang Đông, ngóng về Tây, hướng đi mơ màng dễ dàng lạc bến
Ôi sắc nước hương trời xa đôi nẻo, lòng dễ mến yêu
Thủy phủ khiến sức nước ngưng, buổi sáng trong veo như trang điểm
Cho hồn các vị tựa hàng tiên
Tiếng sóng động đông dài, tưởng niệm dấu thần phương nao mờ mịt
Ngóng hồn thiêng xa vời vợi mong được hàm ơn…”
Hoặc một đoạn bài văn tế khác còn lưu ở Âm Linh tự, và đình làng An Vĩnh:
“Hỡi ơi
Đất Việt trời Nam trải bao phen lao khổ
Nghĩ đến kẻ điêu linh từ thuở nọ
Cho hay: Sinh hề ký, tử hề quy
Ra đi có mà ít người trở lại
Thân ấy mất mà danh ấy còn sống mãi
Xót thương thay !
Liều thân vì Tổ quốc, son sắt một lòng
Ngang dọc chí nam nhi, phong ba vùi dập
Tuyết sương chẳng quản, mưa gió chẳng sờn
Quân vụ biên phòng, chạnh niềm viễn xứ
Quyết một dạ bảo vệ biên cương, bờ cõi
Hoàng Sa, Trường Sa lãnh hải, biển cả mênh mông, tháng năm vô định...”
Cứ thế, hễ đến ngày Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, những pháp sư trên đảo Lý Sơn vẫn mải miết lặng thầm như con sóng hôm nay liền vào con sóng trước để tạo nên sức mạnh mênh mông trên mặt biển khơi. Và chính họ, những người con đảo Lý Sơn lưu giữ và truyền cảm hứng từ đời này đến đời khác về lòng kính cẩn tri ân các bậc tiền nhân quên mình trên dặm dài sóng biển để canh giữ và bảo vệ biển, đảo Tổ quốc thiêng liêng.