Bất thường bản án sơ thẩm vụ kiện Hợp đồng hợp tác đầu tư: Bản án phúc thẩm cũng cần được xem xét lại
Pháp đình - Ngày đăng : 13:47, 09/07/2018
Như Báo điện tử Tài nguyên và Môi trường đã phản ánh, năm 2002, Công ty Cổ phần đầu tư và Kinh doanh nhà Tân Việt An (Cty Tân Việt An) đã ký “Hợp đồng hợp tác kinh doanh” với Công ty TNHH MTV Đầu tư và Xây dựng Trường Thịnh (Cty Trường Thịnh) để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu nhà ở cán bộ công nhân viên tại phường Bình An (Quận 2, TP.HCM). Dự án này, Cty Trường Thịnh được Thủ tướng Chính phủ giao đất năm 1998, đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500. Theo quyết định phê duyệt của Sở Xây dựng TP.HCM, toàn bộ diện tích chung cư là 7.378m2, được chia làm 03 lô (C1, C2 và C3). Và theo Hợp đồng, Cty Tân Việt An được quyền sử dụng Lô C1 và C2 (diện tích 4.924 m2).
Ngày 21/6/2010, Cty Tân Việt An và Công ty Cổ phần Đức Mạnh (Cty Đức Mạnh) đã ký Hợp đồng hợp tác đầu tư số 01/HTDT/TVA-ĐM (Hợp đồng số 01) cùng hợp tác đầu tư xây dựng và kinh doanh 02 khối chung cư (Lô C1, Lô C2). Hai bên đồng ý giá trị khu đất là 206.808.000.000 đồng (Hai trăm lẻ sáu tỷ, tám trăm lẻ tám triệu đồng); trong đó, Công ty Tân Việt An góp 20%, Công ty Đức Mạnh góp 80% để được sở hữu giá trị khu đất theo tỷ lệ tương ứng. Tổng giá trị xây dựng 2 lô chung cư này dự kiến khoảng 400.000.000.000 đồng (Bốn trăm tỷ đồng), không bao gồm giá trị của khu đất. Trong đó, Công ty Tân Việt An góp 20% và Công ty Đức Mạnh góp 80%; sau khi khu chung cư hoàn thiện thì lợi nhuận được chia theo số lượng căn hộ dựa vào tỷ lệ góp vốn.
Trong quá trình triển khai Hợp đồng số 01, hai doanh nghiệp này đã có những thỏa thuận điều chỉnh để đẩy nhanh tiến độ dự án; đồng thời phía Cty Đức Mạnh liên tiếp vi phạm nghĩa vụ thanh toán, và mới chỉ thanh toán 115 tỷ đồng.
Đến ngày 27/8/2014, Cty Đức Mạnh đã tự ý hủy ngang thỏa thuận đã ký kết và khởi kiện Công ty Tân Việt An tại TAND Quận 2, yêu cầu Cty Tân Việt An trả lại số tiền 115 tỷ đồng và yêu cầu phạt bồi thường gấp đôi là 230 tỷ đồng. Sau đó, Cty Đức Mạnh có đơn bổ sung chỉ yêu cầu bồi thường 115 tỷ đồng và bồi thường thiệt hại theo lãi suất 9%/năm trên số tiền này.
Bản án sơ thẩm có nhiều sai sót
Sau khi tiến hành xét xử, TAND Quận 2 chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Cty Đức Mạnh, buộc Cty Tân Việt An phải thanh toán cho Cty Đức Mạnh số tiền 177,657 tỷ đồng, thực hiện một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp lý. Bên cạnh đó, TAND quận 2 cũng đã Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 20/2017/QĐ-BPKCTT ngày 18/9/2017 cấm Cty Tân Việt An chuyển dịch quyền tài sản đang tranh chấp là hai lô chung cư C1, C2.
Ngày 11/10/2017, Viện KSND TP.HCM có Quyết định số 916/QĐKNPT-VKS-KDTM kháng nghị phúc thẩm đối với Bản án kinh doanh thương mại số 14/2017/KDTM-ST ngày 18/9/2017 của TAND Quận 2. Nội dung Quyết đinh kháng nghị nêu rõ: TAND quận 2 chỉ tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Cty Đức Mạnh, mà không tuyên chấp nhận hay không chấp nhận các yêu cầu phản tố của bị đơn Cty Tân Việt An là vi phạm nghiêm trọng về tố tụng. Bởi vì, theo quy định tại điểm c, Khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: “Trong phần quyết định phải ghi rõ các căn cứ pháp luật, quyết định của HĐXX về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời..”
Sau đó, ngày 13/11/2017, VKSND Tối cao đã có Văn bản số 4599/VKSTC-V12 gửi Chánh án TAND TP.HCM chỉ rõ những sai sót tại bản án sơ thẩm của TAND Quận 2.
Về việc này, ngày 20/10/2017, Ủy ban kiểm tra Trung ương cũng đã có Văn bản số 2095-CV/UBKTTW chuyển đơn và tài liệu kèm theo đến Chánh án TAND TP.HCM yêu cầu xem xét, chỉ đạo giải quyết, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp theo đúng quy định pháp luật. Trong đó, nội dung văn bản nêu rõ những sai phạm của Tòa án cấp sơ thẩm: “Trong thời gian góp vốn thực hiện dự án, Cty Đức Mạnh không tuân thủ đúng cam kết về nghĩa vụ thanh toán, các nội dung đã thỏa thuận tại Phụ lục Hợp đồng và Biên bản cuộc họp giữa ba bên (Trường Thịnh, Tân Việt An, Đức Mạnh), tự ý đơn phương chấm dứt hợp đồng khi chưa được sự chấp nhận của các bên, vi phạm quy định tại Điểm b, Khoản 4 Điều 32 Luật Thương mại, trái với quy định tại Khoản 3, Điều 510 Bộ luật dân sự 2015. Căn cứ các nội dung đã thỏa thuận tại Hợp đồng hợp tác kinh doanh, Công ty Tân Việt An không có bất kỳ điều khoản nào quy định khi một bên rút vốn hoặc hủy ngang hợp đồng sẽ được tính lãi suất 9%/năm trên tổng số tiền đầu tư vào dự án. Vì đây là hợp đồng góp vốn giữa hai pháp nhân để kinh doanh bất động sản, không phải quan hệ vay nợ trong giao dịch dân sự nên tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 314 Luật thương mại và Khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 (thuộc chế định vay tài sản) để tuyên buộc Cty Tân Việt An trả tiền gốc và phật lãi suất là trái quy định pháp luật, vi phạm nội dung thỏa thuận giữa các bên tại Mục i Điểm b Khoản 11.2 trong hợp đồng số 01/HTĐT/TVA-ĐM ngày 21/06/2010”.
Hai bên cùng có lỗi
Trong phiên xét xử phúc thẩm ngày 12/6, đại diện VKSND TP.HCM cho rằng: Việc Cty Đức Mạnh và Cty Tân Việt An ký Hợp đồng số 01 là có thực; Cty Đức Mạnh đã chuyển số tiền 115 đồng cho Cty Tân Việt An và Cty Tân Việt An đã tiến hành đền bù, giải phóng mặt bằng lô C1, C2 thông qua Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng quận 2, nhưng do một số hộ dân nằm trong dự án còn tranh chấp về giá đền bù tại UBND quận 2 là có thực.
Đồng thời, trong Kết luận thanh tra số 42, ngày 24/11/2017 của Thanh tra TP.HCM có nêu cụ thể và có các kiến nghị đến UBND TP.HCM, UBND Quận 2 để giải quyết triệt để và đẩy nhanh tiến độ thực hiện Dự án nhà ở cán bộ công nhân viên tại phường Bình An (trong đó có lô C1, C2). Do đó, việc Cty Đức Mạnh xác định lỗi hoàn toàn của Cty Tân Việt An không giao đất đúng tiến độ là không chính xác. Vì đây là yếu tố khách quan mà phía Cty Tân Việt An không thể tự giải quyết được, mà cần có sự can thiệp của cơ quan quản lý có thẩm quyền là UBND TP.HCM và UBND Quận 2.
Đại diện VKSND TP.HCM cho rằng: Trong Bản án sơ thẩm, HDXX cũng đã có quyết định Cty Đức Mạnh dù cam kết không thế chấp quyền tài sản trong dự án với Cty Tân Việt An, nhưng thực tế đã sử dụng đối với 2 lô C1,C2 thế chấp đảm bảo khoản vay tại Ngân hàng TMCP Quân Đội, chi nhánh Đà Nẵng, dù khoản vay đã được phía ngân hàng xác nhận giải chấp và thay thế bằng tài sản khác nhưng điều này cũng thể hiện Cty Đức Mạnh không trung thực với Cty Tân Việt An.
Cũng theo vị đại diện VKSND TP.HCM: Xét quá trình thực hiện hợp đồng hai bên đều có lỗi nên thiệt hại các bên cùng chịu trách nhiệm và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Hợp đồng hợp tác đầu tư số 01 cần thiết phải hủy bỏ theo qui định tại Điều 425 Bộ luật dân sự năm 2015. Ghi nhận ý kiến tự nguyện của Cty Tân Việt An, đề nghị Tòa án tiến hành định giá toàn bộ diện tích đã được bồi thường và giải tỏa theo giá đất tại thời điểm hiện tại và tính theo tỷ lệ góp vốn của Cty Đức Mạnh là 69,5% trên tổng giá trị đất, Cty Tân Việt An sẽ nhận chuyển nhượng lại giá trị phần góp vốn này hoặc yêu cầu cơ quan Thi hành án phát mãi và chia theo tỷ lệ góp vốn.
Bản án phúc thẩm tiếp tục có “vấn đề”
Mặc dù, VKSND TP.HCM, VKSND Tối cao, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã có những kiến nghị về những sai sót của bản án sơ thẩm, đặc biệt tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND TP.HCM đã trình bày rất rõ bản chất vụ việc, nhưng tại Bản án phúc thẩm số 583/2018/KDTM - PT, TAND TP.HCM vẫn tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn là Cty Đức Mạnh về việc chấm dứt hợp đồng hợp tác số 01 ngày 21/6/2010 với Cty Tân Việt An; buộc Cty Tân Việt An thanh toán cho Cty Đức Mạnh số tiền 177,675 tỷ đồng (115 tỷ đồng tiền góp và 62,675 tỷ đồng tiền lãi) - bằng đúng số tiền bản án sơ thẩm đã tuyên; thực hiện 1 lần ngay khi bản án có hiệu lực. Ngoài ra, HĐXX cũng tuyên không chấp nhận yêu cầu phản tố của Cty Tân Việt An; duy trì áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 20/2017/QĐ-BPKCTT ngày 18/9/2017 cấm Cty Tân Việt An chuyển dịch quyền tài sản đang tranh chấp là hai lô chung cư C1, C2.
Nhận định về bản án phúc thẩm, Luật sư Võ Thanh Khương (Đoàn luật sư TP.HCM) cho rằng: “Hợp đồng hợp tác đầu tư giữa Cty Tân Việt An và Cty Đức Mạnh là thỏa thuận góp vốn giữa hai pháp nhân để kinh doanh bất động sản, đây là quan hệ kinh doanh thương mại (Điều 504 Bộ luật dân sự 2015), không phải quan hệ vay nợ trong giao dịch dân sự (Điều 463 Bộ luật dân sự 2015). Xuyên suốt quá trình hợp tác đầu tư, giữa hai bên không có bất kỳ điều khoản hay văn bản thỏa thuận nào qui định khi một bên hủy ngang hợp đồng thì sẽ tính lãi suất 9%/năm trên tổng số tiền đã đầu tư vào dự án, nên việc HĐXX tuyên buộc Cty Tân Việt An bồi thường thiệt hại cho Cty Đức Mạnh với lãi suất 9% là trái quy định của Luật thương mại và Bộ luật dân sự”.
Mặt khác, với kết quả nêu trên, có thể thấy HĐXX đã bỏ qua ý kiến mà đại diện Viện KSND TP.HCM trình bày tại phiên tòa là: Hai bên đều có lỗi nên thiệt hại các bên cùng chịu trách nhiệm và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; hủy bỏ hợp đồng hợp tác đầu tư số 01. Đồng thời, ghi nhận ý kiến tự nguyện của Cty Tân Việt An đề nghị HĐXX tiến hành định giá toàn bộ diện tích đã được bồi thường và giải tỏa theo giá đất tại thời điểm hiện tại và tính theo tỷ lệ góp vốn của Cty Đức Mạnh là 69,5% trên tổng giá trị đất, Cty Tân Việt An sẽ nhận chuyển nhượng lại giá trị phần góp vốn này hoặc yêu cầu cơ quan Thi hành án phát mãi và chia theo tỷ lệ góp vốn...
Tuy nhiên, HĐXX đã không đưa đầy đủ ý kiến của đại diện VKSND TP.HCM vào trong bản án phúc thẩm số 583/2018/KDTM-PT.
Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc.