Những sáng kiến tiết kiệm nước của người trồng cà phê ở Việt Nam

Kinh tế - Ngày đăng : 00:00, 02/09/2015

(TN&MT) - Trên những vườn cà phê ở Việt Nam, những lon sữa, chai lọ nhựa bị bỏ đi đã được tái sử dụng với mục đích mới, trở thành công cụ giúp người nông dân...

 

(TN&MT) - Trên những vườn cà phê ở Việt Nam, những lon sữa, chai lọ nhựa bị bỏ đi đã được tái sử dụng với mục đích mới, trở thành công cụ giúp người nông dân tiết kiệm nước. Bằng cách làm này, họ đã kéo giảm lượng nước tưới xuống 50% trong khi vẫn đảm bảo hiệu quả sản xuất.

Nguy cơ thiếu nước tưới

Theo thống kê, Việt Nam hiện là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới và có tới 2,6 triệu người có đời sống kinh tế phụ thuộc vào cây cà phê. Phần lớn diện tích cà phê tập trung tại khu vực cao nguyên và miền Trung. Tại những khu vực này, lượng nước sử dụng cho canh tác nông nghiệp chiếm đến 96% trong tổng số nguồn nước được sử dụng. Tình trạng thay đổi khí hậu và việc sử dụng lãng phí nguồn nước trong việc sản xuất nông nghiệp đã dẫn đến hệ lụy tất yếu là sự khan hiếm nước, và là mối đe dọa ngày càng gia tăng đối với người nông dân, hộ gia đình và ngành công nghiệp cà phê.

Một nghiên cứu do Nestlé tài trợ đã đưa ra dự tính rằng, trung bình những người nông dân sử dụng hơn 60% lượng nước cần thiết trong mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4), gấp 3 đến 4 lần mức nước tưới cần thiết. Đây là một trong những nguyên nhân khiến mạch nước ngầm ngày càng cạn kiệt và người nông dân phải đối mặt với nhiều khoản chi phí về tài chính và nhân công.

Ông Phạm Phú Ngọc – Trưởng bộ phận hỗ trợ nông nghiệp của Nestlé giải thích rằng, cách để giải quyết vấn đề nước một cách nhanh chóng trên diện rộng là sử dụng những dụng cụ chi phí thấp mà người nông dân có thể áp dụng và hướng dẫn cho những người khác sử dụng công cụ này. “Cà phê ở Việt Nam được trồng trong những trang trại nhỏ, có diện tích khoảng từ 2-3 ha. Do đó, những kỹ thuật quản lý quy mô lớn thường khó thực hiện. Tuy nhiên, những công cụ sáng tạo từ sáng kiến của  người nông dân thực sự rất hữu ích”, ông Ngọc cho biết.

Đo lượng mưa bằng vỏ lon sữa rỗng

Nhằm tiết kiệm nguồn nước trong sản xuất, nông dân tỉnh Đăk Lăk đã nghĩ ra  cách sử dụng những vỏ lon sữa đặc rỗng để đo lượng mưa hay những chai nhựa bỏ đi được đặt úp trong đất có thể đo độ ẩm của đất. Những công cụ này sử dụng đơn giản và gần như không tốn chi phí gì, dễ dàng phổ biến trong số các nông hộ trồng cà phê.

Chỉ cần một thủ thuật đơn giản là đặt chai nhựa úp xuống đất và quan sát mức độ nước tụ lại trong chai, người nông dân đã có một công cụ để đo độ ẩm của  đất. Khi những giọt nước nhỏ trở nên khan hiếm, họ biết rằng đã đến lần tưới đầu tiên trong mùa khô.

Sau đó, những nông hộ này tiếp tục sử dụng vỏ lon sữa bò để đo lượng nước mưa mà cây cà phê hấp thu được. Điều này giúp họ điều chỉnh lượng nước tưới trong suốt mùa khô. Ví dụ, khi nhận thấy một vỏ lon sữa bò chứa 1/6 lượng nước mưa trong đó, điều đó có nghĩa là cây cà phê gần đó đã tiếp nhận khoảng 100 lít nước. Điều này rõ ràng hiệu quả hơn việc sử dụng những công cụ khoa học phức tạp khiến người nông dân khó nắm bắt.

Thông thường, người trồng cà phê sử dụng từ 700 – 1000 lít nước/cây cà phê cho mỗi lần tưới. Nhưng với cách làm này thì chỉ cần sử dụng 300 – 400 lít nước mà vụ mùa cà phê thu hoạch vẫn cho kết quả tương tự.  Vì vậy hiệu quả tiết kiệm nước đạt hơn 50% trong nhiều trường hợp.

Trong khi nông dân ở nhiều nước phát triển có thể áp dụng các phương pháp phức tạp hơn để giảm thiểu lượng nước tưới, thì phương pháp cơ bản này và việc phổ biến phương pháp này tới các nông hộ nhỏ thực sự hiệu quả đối với khu vực trồng cà phê tại Việt Nam. Các vỏ lon sữa và các chai nhựa là những ví dụ điển hình về những công cụ đơn giản nhưng có ý nghĩa quan trọng.

Ông Carlo Galli - Giám đốc kỹ thuật của Nestlé, phụ trách về vấn đề bảo tồn nguồn nước  tại Thụy sỹ chia sẻ: “Chai nhựa và vỏ lon sữa là những công cụ đơn giản để đo độ ẩm của đất, giúp người nông dân biết được khi nào là thời điểm tốt nhất để tưới nước. Kinh nghiệm ở Việt Nam không phải là việc áp dụng công nghệ cao, mà đó chính là sáng kiến từ  thực tế và việc áp dụng những công cụ đơn giản”.

Thục Vy