Để có nhiều đô thị lấp lánh hơn
Môi trường - Ngày đăng : 20:34, 22/11/2018
Đô thị hóa diễn ra không đồng đều
Hệ thống đô thị nước ta đang phát triển nhanh về số lượng nhưng chất lượng đô thị còn thấp; trình độ và năng lực quản lý và phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu. Kết cấu hạ tầng đô thị yếu kém, quá tải không những không tạo điều kiện cho sự phát triển KT - XH đô thị, mà còn làm nảy sinh nhiều áp lực đối với môi trường.
Để phát triển đô thị hóa bền vững, chúng ta cần tiến hành xây dựng các hệ thống hạ tầng đô thị, đặc biệt là hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường phải đi trước một bước. Trên thực tế, đô thị hóa ở nước ta nhiều nơi, nhiều lúc còn mang tính chủ quan; muốn nhanh chóng tăng dân số đô thị để được nâng cấp đô thị (như nâng cấp đô thị loại V thành loại IV, loại IV thành loại III…) nên đã mở rộng đô thị bằng cách ghép các làng xã có 100% sản xuất nông nghiệp vào đô thị để tạo thành các phường mới. Việc này đã tạo ra tình trạng có nhiều làng xã nông nghiệp tồn tại lâu dài trong đô thị và phát sinh các vấn đề rất nan giải đối với xây dựng và phát triển hệ thống kỹ thuật bảo vệ môi trường đô thị.
Không những thế, các đô thị nước ta tồn tại phổ biến tình trạng thiếu quỹ đất dành cho giao thông, tỷ lệ đất dành cho giao thông chưa đảm bảo theo yêu cầu. Theo số liệu thống kê, tại các đô thị lớn, các chỉ tiêu về hạ tầng giao thông chỉ đáp ứng được khoảng 35 - 40% so với nhu cầu cần thiết.
Các thành phố lớn trực thuộc TW có nhiều dự án về giao thông đô thị được triển khai, như: cải tạo, nâng cấp và xây mới các trục giao thông đối ngoại, cửa ô, trục giao thông hướng tâm, các nút giao đồng mức, khác mức, các đường vành đai, tuyến tránh, cầu vượt trong đô thị... Tuy nhiên, tình trạng ách tắc và tai nạn giao thông vẫn diễn ra rất phổ biến…
Triển vọng về những đô thị năng động
Trong tầm nhìn tổng thể nhằm hoàn thiện hệ thống đô thị của cả nước - các chiến lược phát triển của Việt Nam phải giải quyết được các điểm chưa nhất quán giữa những gì của hiện tại và những gì cần làm trong tương lai.
Trước hết, triển vọng của một công cuộc đô thị hóa hết sức năng động dù đã được dự báo vì sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế sang công nghiệp hóa và hiện đại hóa với tỷ lệ tăng trưởng dân số đô thị cao; vì luồng dân di cư ồ ạt từ nông thôn đổ về các thành phố. Dó đó, các thành phố thuộc nhóm 15 đô thị có dân số dự báo năm 2020 lớn nhất, trong đó, Hà Nội và TP. HCM sẽ cuốn hút rất nhiều dân nhập cư từ các vùng nông thôn.
Đến thời điểm này, sự chuyển đổi sử dụng đất, và nguy cơ dân số tăng nhanh tại HN, TP. HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng và Cần Thơ đến mức “không chịu nổi” là khá hiển nhiên, trừ phi có một lưu tâm nghiêm túc cho sự phát triển phân tán tới các trung tâm đô thị khác. Chẳng hạn, với hai TP. Hà Nội và Hải Phòng, dù đóng vai trò chủ chốt tại khu vực Đồng bằng sông Hồng, nhưng cần trải xuống tới các thành phố hành lang như Hải Dương, Vĩnh Yên và Bắc Ninh mới có hiệu quả cao. Đối với khu vực duyên hải miền Trung, các động lực trọng yếu trải dọc theo chiều dài với TP. Đà Nẵng ở vị trí trung tâm, 2 TP. Thanh Hoá và Vinh ở Bắc Trung bộ, 2 đô thị là TP Quy Nhơn và Nha Trang ở Nam Trung Bộ…
Xu hướng “Đô thị xanh” đang được quan tâm và dần trở thành hướng đi chủ đạo trong các công trình xây dựng hiện đại. Việc ứng dụng các công nghệ vật liệu xây dựng thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên và sử dụng năng lượng tái tạo trong các tòa nhà hiện nay đang là xu hướng mới, góp phần giảm thiểu các sức ép đối với môi trường. Tuy vậy, số lượng công ty đầu tư xây dựng công trình xanh còn rất ít.
Các viễn cảnh đô thị hoá trong tương lai của Việt Nam đã đặt ra trước vấn đề chuẩn bị các quy hoạch phát triển vùng, tỉnh và chiến lược phát triển cho các đô thị có vai trò nổi bật. Các nhà quản lý và hoạch định quy hoạch cần phải có khả năng đánh giá được mức độ thiếu hụt cần bù đắp, khả năng Việt Nam có thể đáp ứng và vượt qua. Nhằm xóa bỏ khoảng cách này, họ cần đánh giá được các nhu cầu thực tế, các rủi ro và chi phí cần được tính toán kỹ lưỡng, chuẩn bị nguồn lực về tài chính, nhân lực và các nguồn lực khác.
Mong muốn của các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý là hướng tới xây dựng những đô thị bền vững. Nhưng để đạt được mong ước này, chắc còn cần nhiều thời gian, công sức và cả tâm sức. Bởi lẽ, trong một đô thị được coi là phát triển bền vững, mọi người phải được bình đẳng trong khi tiếp cận các cơ hội như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, tìm kiếm việc làm, cải thiện đời sống, cư trú. Những người thuộc nhóm yếu thế hay “dễ tổn thương” như người già cô đơn, trẻ em mồ côi, phụ nữ đơn thân, đông con, người tật nguyền… cần phải được quan tâm đúng mức.
Liên Hợp Quốc đã đưa ra Quy ước về đô thị phát triển bền vững với các quy định trong sử dụng năng lượng, chất thải, giao thông, cung cấp nước sạch, thoát nước, thiết kế đô thị... Nếu căn cứ theo những tiêu chí trong quy ước này thì chúng ta còn lâu mới tiến kịp, nhất là trong vấn đề xử lý giao thông, xử lý chất thải và thoát nước.
Như thế, các thách thức của tương lai còn phức tạp hơn trong quá khứ. Các chiến lược và chính sách quy hoạch cần giải quyết được cuộc đấu tranh nội bộ trong cả hệ thống nhằm xóa bỏ đói nghèo và cải thiện điều kiện sống và môi trường Việt Nam.
Vượt qua những thách thức đó, viễn cảnh sáng với công cuộc đô thị hóa ở Việt Nam tất thành hiện thực.
Mạng lưới đô thị cả nước được hình thành và phát triển trên cơ sở các đô thị trung tâm, gồm thành phố trung tâm cấp quốc gia, khu vực và quốc tế như: Thủ đô Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, các thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng, và Huế; thành phố trung tâm cấp vùng như: Hạ Long, Việt Trì, Thái Nguyên, Hòa Bình, Nam Định, Vinh, Nha Trang, Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột, Biên Hòa, Vũng Tàu và Cần Thơ; các thành phố, thị xã trung tâm cấp tỉnh... Tuy vậy, quá trình đô thị hóa diễn ra không đồng đều, chủ yếu ở 3 vùng trọng điểm phát triển KT - XH, ở vùng duyên hải, và một số đảo lớn như Phú Quốc, Côn Đảo, Vân Đồn, Cát Bà... |