Thông đỏ trước nguy cơ tuyệt diệt
Môi trường - Ngày đăng : 00:00, 10/08/2017
Ở Lâm Đồng, người Cill bản địa dưới chân núi gọi nó là Bnơm Dà Rwas (diễn nghĩa theo tiếng phổ thông là núi có nguồn nước từ con suối Dà Rwas chảy xuống và ở đỉnh của nó mang dáng hình chiếc ngà Voi). Núi Voi - là quà tặng của Trời Đất, qua hàng trăm triệu năm vật vã để cấu trúc, hình thành và định dạng một loài. Rừng trên núi Voi này lại càng quý, vì nó có thông đỏ.
Đỉnh núi Voi vào những lúc mây khói phủ. |
Gần nửa thế kỷ trước, sau khi nhà sinh hóa P.Poitier (người Mỹ) chiết tách được chất 10 deacetyl baccatin III (10-DAB III) từ lá của loài thông đỏ và chuyển hóa chất này thành chất có hoạt tính chống ung thư là Taxol và Taxotere trong thập niên 1970 - 1980, rồi đưa vào điều trị chữa ung thư buồng trứng, vú, phổi, tuyến tiền liệt… Kể từ đầu thập niên 1994, dược chất Taxol được phổ biến ra thị trường Mỹ, rồi toàn thế giới. Khó có ai làm trong ngành y, dược ở Việt Nam mà có thể không nghe biết đến Taxol. 25 năm sau, Việt Nam đã nhận được thông tin quan trọng và tuyệt vời này. Và các nhà dược học trong nước đã tìm đến núi Voi để lấy cành lá của nó về phân chiết hóa học, rồi xác nhận đúng là có hoạt chất Taxol nhiều. Từ đó, các cơ quan nghiên cứu lâm sinh của Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam, Viện Khoa học lâm nghiệp… cũng tìm lên ngọn núi đây để lấy mẫu của nó về nghiên cứu, nhân giâm tạo giống, cố giữ lấy nguồn gen. Đó là những cây cổ thụ lâu năm, mà không thể xác định tuổi, bởi chúng được biết đến là loài phát triển rất chậm. Những cây cổ thụ ít ỏi này nằm chen trong một số loài cây thích nghi được với khí hậu núi cao lạnh khác. Hy vọng tạo ra được cây non, rồi sẽ thành rừng. Giấc mơ bảo tồn được nguồn gen cây rừng quý và giấc mơ về một chương trình sản xuất thuốc chữa ung thư hàng hóa từ loài cây hiện hữu trên đất nước mình lúc đó cứ vươn mãi. Ai cũng bàn tán, tụng ca, vinh danh thông đỏ. Vài cơ quan y dược, doanh nghiệp cũng lập dự án phát triển nó - sản xuất dược liệu. Những “cánh rừng hy vọng” được nói đến. Nhưng rồi, chả có cánh rừng thông đỏ mới thực sự nào được hình thành trên đất nước từ dạo đó, ngoại trừ mô hình nhân nuôi giống nó mà Trung tâm Nghiên cứu Lâm sinh cùng Viện Sinh học Tây Nguyên lập ra để “chờ” đấy, cùng một trại khảo nghiệm thử bước đầu gần đây của Viện Nghiên cứu cây dược liệu. Nghĩa là, đến nay, chỉ có quần thể gần chục cây cổ thụ còn lại trên núi Voi là bằng chứng hùng hồn về sự tồn tại của loài thông đỏ - nguồn gen gốc.
Tôi không phải dân y học, hay lâm sinh, nhưng tôi quý nó vì hy vọng cho đồng loại kiệt cùng của mình đang nằm chờ phép màu ở các bệnh viện ung thư. Hoạt chất Taxol, một biệt dược, từ loài cây này. Trong vỏ và lá của nó chứa chất Paclitaxel, hàm lượng khoảng 0,045 - 0,13%, có tác dụng diệt một số loại tế bào ung thư. Taxus wallichiana Zucc - tên khoa học của nó - vẫn nằm chơi vơi trên núi Voi với tư cách một cổ thực vật lá kim, chưa là cứu tinh cho những con người sắp chết trên nước Việt. Tôi muốn bảo vệ tới cùng nó, cho một ngày nào đó có một đề án an toàn cho nó, để mọi người còn nguồn gen mà làm những việc lớn kế tiếp. Nhưng tôi bất khả - vì một trái tim bé nhỏ đơn này không thể đương đầu với lâm tặc dưới chân núi Voi và quyền lực ở đâu đó. Tôi đã làm mọi thứ bằng sức phận của một người yêu cây cỏ, báo cho kiểm lâm, chính quyền thôn xóm đến tỉnh về những cuộc tận triệt loài cây đó. Nhiều khi tôi muốn hét vang trên đỉnh núi Voi để nó vọng hết thung lũng dưới kia, khắp vùng Định An này, cho âm thanh vọng xa hơn nữa về bài ca đạo lý cuối cùng khi cư xử với loài cây này và hơn cả một loài cây. Bởi vân cây thông đỏ cổ thụ cưa ra, quá đẹp. Giá 1,5 - 2 triệu USD cho một ký Taxol (Taxoid) không bằng một miếng gỗ mỗi cạnh 80cm họ bán 900 nghìn - 1,5 triệu đồng tiền tươi.
Sau này, khi thăm chơi nhà nhiều đại gia, quan chức tôi càng ngỡ ngàng không hiểu sao những tấm phảng nằm và bộ bàn ghế bằng gỗ thông đỏ có thể rơi xuống không gian đó. Có thể giới y dược, lâm sinh và kẻ rỗi hơi tôi coi nó quan trọng, nhưng với nhiều người, nhiều chỗ nó cũng chỉ là một thứ cây rừng, như bao loài cây rừng và bình minh lên mỗi ngày họ có việc khác quan trọng, cần kíp hơn, “vì cộng đồng” hơn.
Cứ đổ đèo Prenn, rời Đà Lạt, là ai cũng phải ngang qua dãy núi Voi. Xoay ánh mắt sang bên phải là tôi thương cho ngọn núi và cánh rừng còn sót lại trên đó. Tôi có thể định vị vị trí có thông đỏ, số lượng và kích cỡ của từng cây trên đấy. Vì tôi đã khám phá hết ngọn núi này và nay hay leo lên để xem những cây cổ thụ Taxus wallichiana Zucc kia có còn. Cứ vài tháng, một khoảng trống rừng lại trơ ra. Vài năm mỏng đi, vắng thêm những cây quen thuộc. Dưới những gốc thông đỏ đó, có khi những cành nhánh chứa Taxol kia đã khô, những tấm ván bìa vứt lại lăn lóc, hoặc những gốc nhựa ứa ra hãy còn tươi. Không phải dân dược học, nhưng tôi biết nhựa kia cứu được người. Không phải dân lâm nghiệp, nhưng tôi biết đã gần kiệt một nguồn gen qúy hiếm. Không phải dân lâm sinh, nhưng tôi biết, cây nào đã bị cưa đổ là vĩnh biệt cây đó và quần thể thông đỏ cuối cùng trên đất nước bước đến gần hơn sự tuyệt diệt, vì xung quanh không có tái sinh, hay thế hệ cây non tiếp nối.
Tôi thương cho sự mất mát của núi rừng…, sự ly biệt của thông đỏ nghìn năm với đỉnh núi Voi. Tôi càng thương những người đang nằm trong các bệnh viện hy vọng sẽ được cứu từ phép màu mang tên “biệt dược”. Mỗi ngày, chỏm xanh nguyên sinh lại dồn lên đỉnh ngọn, nghĩa là đỉnh ngọn ngày còn nhọn hơn. Bởi cái ngọn nguyên hình khối ngà voi của nó được gọt, gọt mãi, như thể con người lật ngược một chiếc ngà voi lại để gọt bằng rựa từ gốc đến chóp. Là những vườn rẫy cà phê, trồng hoa màu liếm hết thân chiếc ngà voi, với rãy vườn bỗng dưng xuất hiện khắp thân thể chiếc ngà voi đó.
Thường dân dưới chân núi không ai không biết chủ nhân của vườn rẫy trên ngọn núi thiêng. Người ta chẻ đất, xé, tách, giao, gửi, “gả” rừng tá lả. Tất cả, cứ dần biến thành vườn, thành khu an dưỡng, biệt thự trên đỉnh núi.
Và cứ mỗi lần lên thăm đỉnh núi, tôi lại thấy thêm sự quang vắng của rừng, thấy sự ngạo nghễ của lòng tham con người. Trong cái gọi là “sinh thái” mà người ta mượn tiếng để chiếm rừng, xẻ núi kia, là sự bạo ngược với thiên nhiên.
Ngọn núi thanh cao đang bị cào cấu. Người Cill hẳn thấy ngọn núi ngày một mất thiêng rồi. Và sự thật nhiều người bản địa trong các bon dưới chân núi dù chậm chân giờ cũng đã nhảy lên “kiếm chút”, bỏ qua nhận thức bao đời “rừng thiêng”, Yàng (thần linh) luôn ở trên đó… Cùng nhau hư, hỏng và tàn ác với thiên nhiên thôi, cho dù họ vốn là cộng đồng đức hạnh sâu sa nhất trước Trời Đất.
Những cây thông đỏ này và làn hương Taxol không cần một cơ chế đặt biệt (dù đáng ra nó xứng đáng để có cơ chế đặc biệt!) cho riêng nó trong việc bảo vệ, nó chỉ cần luật pháp bảo vệ rừng được thi hành thật sự ở ngọn núi này. Cho dù, nơi tồn tại của nó cách Chi cục kiểm lâm tỉnh, Sở NN&PTNT Lâm Đồng chỉ một con đèo, theo đường chim bay, không đầy 3 cây số.
Cũng trên ngọn núi Voi ấy, 18 năm trở lại đây, bỗng dưng vườn tược mọc lên ào ào, đổ xuống khắp mặt núi, dù nó nằm ngay trước mắt, cửa ngõ lên Đà Lạt. Nhiều loài thực vật nguyên sinh khác đã ra đi để vườn tược thay chỗ. Nhiều khoanh rừng xứ Định An (huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng) đã biến thành đất của những “cụ” nọ, ông kia? Phép màu của Taxol trong chữa bệnh ung thư hẳn không bằng phép màu cho sự xuất hiện những vườn rẫy đó.
Và con suối Dà Rwas kia cũng ngày một ít nước chảy, có những mùa tôi thấy khô trắng, trống trơn, trơ ra toàn đá khe - tiếng róc rách ngàn đời đã rời quê hương. Tôi bước trên suối mà như lê ngược lên sa mạc dựng đứng.
Đã bao lần tôi đứng dưới ngước nhìn lên đỉnh núi Voi, chỗ có quần thể thông đỏ cổ thụ chỉ còn là cái chỏm có màu xanh rậm. Tôi nhận ra rằng, thảm xanh ấy cứ dần bị thu hẹp. Núi Voi đang trơ trọi, những cây thông đỏ cổ thụ cuối cùng như bất lực trước lòng tham của con người, như sự lay lắt của bao bệnh nhân ung thư mà tôi từng chứng kiến!
Bút ký: Nguyễn Hàng Tình