Giải quyết những tồn tại với các doanh nghiệp khai khoáng
Tài nguyên - Ngày đăng : 00:00, 07/02/2017
Những vướng mắc còn tồn tại
Hiện nay, theo quy định của Luật Khoáng sản 2010, giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được xác định theo giá tính thuế tài nguyên do UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng, công bố và tại thời điểm tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản còn hiệu lực. Mỗi loại khoáng sản chỉ áp dụng 1 mức giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Trên thực tế triển khai việc thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản tại nhiều địa phương đã nảy sinh những bất cập.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet |
Theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp, hiện nay trong phương pháp tính tiền cấp quyền khai thác đó là tính trên cơ sở giá thuế tài nguyên mà loại thuế này lại do từng địa phương quy định. Trong giá này bao gồm nhiều loại chi phí khác như như chi phí thăm dò, xây dựng cơ bản mỏ, lương, khấu hao máy móc… mà các loại chi phí này cao thấp khác nhau tùy doanh nghiệp, tùy từng vùng và có biến động liên tục, điều này đã tạo ra sự bất công giữa các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản. Cùng với đó, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với 3 cấp trữ lượng là như nhau cho dù mức độ tin cậy về địa chất cũng như mức độ hiệu quả kinh tế là rất khác nhau.
Về chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản, trước khi có Nghị định 158, chúng ta đang áp dụng Nghị định 15/2012/NĐ-CP với nhiều vấn đề còn chưa phù hợp. Ví như quy định hồ sơ được phép khai thác đối với doanh nghiệp được chuyển nhượng mỏ phải trong đó có Giấy chứng nhận đầu tư (chính chủ) của tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản, trong khi giấy phép đầu tư này đã được cấp cho chủ mỏ trước. Điều này đã gây chồng chéo, khó khăn khi thực hiện giải quyết hồ sơ cấp Giấy phép khai thác trong quá trình chuyển nhượng (đặc biệt là chuyển nhượng một phần mỏ).
Về trả lại một phần diện tích khu vực khai thác khoáng sản quy định diện tích mỏ và trữ lượng khoáng sản huy động vào khai thác còn lại sẽ giảm. Tuy nhiên, không có thủ tục điều chỉnh cấp lại giấy phép đối với phần diện tích mỏ còn lại.
Ngoài ra, khi doanh nghiệp có nhu cầu nâng công suất khai thác, trong Luật Khoáng sản và Nghị định 15/2012/NĐ-CP chưa có quy định đối với trường hợp này.
Khắc phục kịp thời
Ông Lại Hồng Thanh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Khoáng sản Việt Nam cho biết, Nghị định 158/2016/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung các nội dung về thành phần, hình thức hồ sơ cấp phép thăm dò, khai thác, phê duyệt trữ lượng cũng như đóng cửa mỏ khoáng sản như, bỏ quy định về Giấy chứng nhận đầu tư thay bằng Quyết định chủ trương đầu tư; cho phép nộp bản sao kèm theo bản chính để đối chứng.
Nghị định cũng đã điều chỉnh các nội dung liên quan đến trình tự, thời gian thẩm định hồ sơ cấp phép thăm dò, hồ sơ cấp phép khai thác khoáng sản theo hướng rõ ràng, minh bạch hơn, làm rõ trách nhiệm của cơ quan liên quan trong quá trình phối hợp thẩm định hồ sơ, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đề nghị cấp phép hoạt động khoáng sản khi chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện hồ sơ… Cụ thể, Nghị định 158/2016/NĐ-CP đã bổ sung hướng dẫn về trữ lượng khoáng sản được phép đưa vào thiết kế khai thác đã đươc nêu tại Điều 52 Luật Khoáng sản. Đồng thời, nêu rõ, “trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là trữ lượng khoáng sản được phép đưa vào thiết kế khai thác, xác định trong dự án đầu tư hoặc báo cáo kinh tế kỹ thuật và được quy định trong Giấy phép khai thác khoáng sản”.
Để tránh tình trạng chia cắt mỏ, Nghị định quy định, khi không huy động hết trữ lượng đã phê duyệt trong khu vực đã thăm dò thì tối thiểu phải huy động 50% trữ lượng (đối với khoáng sản rắn) và tối thiểu 35% tổng lưu lượng đã phê duyệt (đối với nước khoáng, nước nóng).
Ngoài ra, Nghị định 158/2016/NĐ-CP cũng đã bổ sung mới các quy định liên quan đến lấy ý kiến về quy hoạch khoáng sản; lấy ý kiến và trình phê duyệt khu vực cấm, tạm thời cấm hoạt động khoáng sản; về thời hạn của Giấy phép khai thác khoáng sản để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn công tác quản lý khoáng sản thời gian qua.
Ông Thanh cho biết, sau khi Nghị định có hiệu lực, cùng với các Thông tư hướng dẫn của Bộ TN&MT, các Bộ liên quan, sẽ tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh và đầy đủ hơn, góp phần tăng cường hiệu lực công tác quản lý Nhà nước về khoáng sản, chấn chỉnh và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khoáng sản trong thời gian tới.
Phạm Thu Hà