Xóa bỏ cơ chế “xin - cho” trong quản lý khoáng sản

01/01/2015 00:00

(TN&MT) - Trước thềm năm mới, PV Báo Tài nguyên và Môi trường đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Thuấn Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt...

   
(TN&MT) - Thời gian qua, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam luôn tích cực hoàn thiện những văn bản dưới luật, bám sát cơ sở, cùng địa phương tháo gỡ khó khăn trong quản lý nên công tác quản lý khai thác khoáng sản có nhiều chuyển biến. Để thấy rõ hơn những kết quả đạt được của ngành - vốn là một trong những lĩnh vực quản lý khá khó khăn, trước thềm năm mới, PV Báo Tài nguyên và Môi trường đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Thuấn Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.
   
   
Tổng cục trưởng Địa chất và khoáng sản Việt Nam Nguyễn Văn Thuấn
   
PV:Thưa ông, năm 2014 Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã cơ bản hoàn thiện các văn bản pháp luật thực thi Luật Khoáng sản 2010. Xin ông cho biết những tác động và hiệu quả của văn bản pháp luật này đối với việc quản lý Nhà nước trong ngành khai khoáng như thế nào?
   
Ông Nguyễn Văn Thuấn: Luật Khoáng sản năm 2010 ra đời và có hiệu lực là dấu mốc rất quan trọng trong lĩnh vực địa chất và khoáng sản. Luật Khoáng sản 2010 được xây dựng với chủ trương không khuyến khích khai thác khoáng sản; chỉ khai thác khoáng sản khi đảm bảo hài hòa lợi ích Nhà nước - doanh nghiệp và người dân địa phương nơi có khoáng sản; khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định được đầu tư. Xóa bỏ cơ chế “xin - cho”.
   
  Tổ chức cá nhân muốn khai thác khoáng sản phải tham gia đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Khi tham gia đấu giá quyền khai thác khoáng sản phải chứng minh được năng lực về vốn, kinh nghiệm khai thác và cam kết công nghệ chế biến khoáng sản. Đối với mỏ đã cấp trước ngày Luật Khoáng sản 2010 có hiệu lực phải trả tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với phần trữ lượng còn lại.
   
  Năm 2014, các văn bản pháp quy thực thi Luật Khoáng sản 2010 cơ bản hoàn thiện. Các quy định trong các văn bản pháp quy đã và đang được thực thi trong quản lý Nhà nước về khoáng sản. Hoạt động khoáng sản trên cả nước đã có những chuyển biến tích cực, lợi ích Nhà nước thu được từ khoáng sản đã thấy rõ. Các doanh nghiệp được cấp phép khai thác khoáng sản đã có ý thức thực thi pháp luật. Tuy nhiên, việc khai thác khoáng sản trái phép nhất là cát sỏi lòng sông, vàng và than còn diễn ra phức tạp, gây bức xúc trong dư luận. Hiện vấn nạn này đang được cơ quan nhà nước có các biện pháp quyết liệt ngăn chặn.
   
PV:Nghị định 203/2013/CP - NĐ về thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đã tạo phản ứng nhiều chiều khi đi vào cuộc sống. Sau 1 năm Nghị định được triển khai, việc thực thi, chấp hành của các doanh nghiệp ra sao, thưa ông?
   
Ông Nguyễn Văn Thuấn: Nghị định số 203/2013/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2014 ra đời đã có rất nhiều ý nghĩa đối với sự nghiệp phát triển ngành địa chất và khoáng sản nói riêng cũng như sự phát triển đất nước nói chung. Cụ thể: Dự kiến loại bỏ  các tổ chức khai thác khoáng sản làm ăn kém hiệu quả (dự kiến khoảng 20% doanh nghiệp sẽ bị thu hồi giấy phép do không có đủ khả năng nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản). Chỉ các doanh nghiệp có năng lực tài chính có kinh nghiệm khai thác, có công nghệ tiên tiến mới có thể tồn tại.
   
  Để tránh thất thu cho Nhà nước về tiền cấp quyền đã có quy định: Công tác thăm dò phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giám sát. Khâu này trước đây bị buông lỏng nên đã sinh ra rất nhiều trữ lượng “ảo”; các doanh nghiệp khai thác khoáng sản không còn hiện trạng “ôm mỏ”; chỉ đề nghị cấp phép khai thác đủ trữ lượng theo công suất phù hợp với năng lực; các doanh nghiệp khai thác khoáng sản phải khai thác triệt để phần trữ lượng đã được cấp phép; không còn hiện tượng khai thác chọn lọc, lãng phí tài nguyên; các doanh nghiệp phải tự giác chấp hành các quy định của pháp luật; nếu vi phạm pháp luật nghiêm trọng, sẽ bị thu hồi Giấy phép khai thác mà không được hoàn lại tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đã nộp.
   
  Từ khi Nghị định 203/2013/NĐ-CP có hiệu lực đến nay, hầu hết các doanh nghiệp khai thác khoáng sản đã tự giác chấp hành tốt các quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, hợp tác chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để cùng hoàn thành công tác tính, thẩm định, phê duyệt tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Đối với hồ sơ tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản ở trung ương:
   
  Tổng số hồ sơ các doanh nghiệp đã nộp để tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là 481/495 hồ sơ cấp phép cũ và 87/117 hồ sơ cấp phép mới. Số hồ sơ đã được Bộ TN&MT phê duyệt là 168 với tổng số tiền phải thu là 19.280 tỷ đồng và số tiền thu năm 2014 là 2.690 tỷ đồng. Tính đến 30 tháng 11 năm 2014, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đã nộp vào ngân sách Nhà nước năm 2014 khoảng 600 tỷ đồng. Đối với hồ sơ tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản ở địa phương: Theo báo cáo từ 39/63 tỉnh, thành phố đã có 608 hồ sơ được UBND tỉnh, thành phố phê duyệt tiền cấp quyền khai thác khoáng sản với tổng số tiền phải thu là 2.052 tỷ đồng, thu trong năm 2014 là 411 tỷ đồng.
   
   
Sẽ xóa bỏ cơ chế xin cho trong hoạt động khoáng sản
   
PV:Thực tế nhiều địa phương vẫn kêu quản lý hoạt động khai thác khoáng sản rất khó bởi việc công bố những khu vực khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ cho các địa phương còn chậm, ông có chia sẻ gì với kiến nghị trên?
   
Ông Nguyễn Văn Thuấn: Như tôi nói ở trên, Luật Khoáng sản năm 2010 không khuyến kích hoạt động khai thác nhỏ lẻ. Trước đây, trong thời gian ngắn (5 năm) từ khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khoáng sản năm 2005 đến khi Luật khoáng sản năm 2010 có hiệu lực (1/7/2011) các địa phương đã cấp gần 4000 Giấy phép khai thác khoáng sản. Việc khai thác khoáng sản tràn lan dẫn đến hủy hoại môi trường, sử dụng lãng phí tài nguyên.
   
  Thẩm quyền cấp phép của địa phương, đối với khoáng sản không thuộc nhóm vật liệu xây dựng thông thường, chỉ được cấp phép thăm dò, khai thác đối với khu vực được Bộ Tài nguyên và Môi trường khoanh định, công bố là khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ. Đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã công bố 2 đợt với số lượng hơn 120 khu vực và dự kiến công bố Đợt 3 với khoảng gần 50 khu vực. Trong khi các địa phương đề nghị công bố hơn 800 khu vực. Các khu vực địa phương đề nghị thì hầu hết không đúng tiêu chí là khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ. Việc “chậm” khoanh định công bố khu vực có khoáng sản phân tán nhỏ lẻ là thực hiện chủ trương quản lý khai thác khoáng sản chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn, tiết kiệm tài nguyên cho các thế hệ sau.
   
PV:Để tiếp tục đưa hoạt động khai thác khoáng sản đi đúng tinh thần chỉ đạo của Chính phủ là quản chặt, quan tâm tới môi trường, chống thất thoát và làm tăng giá trị gia tăng ngành khai khoáng, năm 2015, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam sẽ tập trung vào nội dung gì, thưa ông?
   
Ông Nguyễn Văn Thuấn: Để tăng cường hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về khoáng sản nói chung và khai thác khoáng sản nói riêng, trong năm 2015, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam sẽ tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
  Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật về khoáng sản, theo đó: Đánh giá tình hình thực hiện Nghị định số 15/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khoáng sản; xây dựng để Bộ trình Chính phủ dự thảo Nghị định (sửa đổi, bổ sung) một số điều của Nghị định số 15/2012/NĐ-CP; hoàn chỉnh để Bộ ban hành các Thông tư hướng dẫn nội dung thanh tra chuyên ngành khoáng sản và hướng dẫn một số điều Nghị định 142/2013/NĐ-CP.
  Thứ hai, đẩy mạnh thực hiện một số giải pháp tăng cường hiệu quản lý hoạt động khai thác khoáng sản, cụ thể: Tiếp tục khoanh định để Bộ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản đối với khoáng sản thuộc thẩm quyền; trình Bộ trưởng phê duyệt kế hoạch đấu giá quyền khai thác khoáng sản năm 2015 của Bộ trong Quý I để tổ chức thực hiện; triển khai chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong “Chỉ thị về việc tăng cường hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật về khoáng sản” đã được Bộ trình trong năm 2014. Theo đó, xây dựng quy chế phối hợp, cung cấp thông tin với Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính) về sản lượng khai thác khoáng sản hàng năm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản theo Giấy phép thuộc thẩm quyền của Bộ.
   
  Tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản, nhất là việc kiểm soát sản lượng khai thác thực tế; hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý giấy phép hoạt động khoáng sản và đưa vào sử dụng làm cơ sở cho cơ quan quản lý Nhà nước các cấp; tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản cập nhật dữ liệu, khai thác nhằm kiểm soát chặt chẽ thông tin khai thác khoáng sản.
   
PV:Xin trân trọng cảm ơn ông!
   
Quảng Minh (thực hiện)
  
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Xóa bỏ cơ chế “xin - cho” trong quản lý khoáng sản
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO